Việt Nam có giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông?
15-5-2023
Theo tôi, trước hết cần phân loại các tranh chấp theo địa lý. Ta có hai “vùng” tranh chấp: Vùng Hoàng Sa (HS) và vùng Trường Sa (TS). Ranh giới địa lý giữa hai vùng có thể là đường vĩ tuyến 12° bắc.
Vùng Hoàng Sa có hai “loại” tranh chấp. Thứ nhứt tranh chấp về “chủ quyền”. Tranh chấp này liên quan đến Việt Nam (Việt Nam) và Trung Quốc (TQ). Nếu tính thêm Đài Loan là “một bên” thì tranh chấp chủ quyền các đảo HS là “tranh chấp tay ba” VN, TQ và Đài Loan.
Tranh chấp loại 2 là tranh chấp phát sinh do đối kháng yêu sách: a) về vùng nước (EEZ), bao gồm các tranh chấp về tài nguyên thuộc về cột nước (cá). Và b) do yêu sách đối kháng về thềm lục địa (và tài nguyên thuộc về thềm lục địa).
Tranh chấp loại 2 bao gồm các bên VN, TQ (và Đài Loan).
Ngoài ra giữa TQ (và Đài Loan) còn có tranh chấp với Phi do chồng lấn EEZ và thềm lục địa, phát sanh từ đường cơ bản các đảo của Phi với các yêu sách (Tam Sa, Tứ Sa, vùng nước lịch sử của TQ).
Cách giải quyết (cho VN) đối với vùng biển Trường Sa tôi có đề cập hôm qua. Đó là nguyên tắc “Actio Popularis”.
“Cuộc chiến công hàm” tại Ủy ban ranh giới Thềm lục địa thuộc LHQ bản chất là một hành động chung của nhiều quốc gia (actio popularis). Lập trường của mỗi quốc gia được thể hiện qua các công hàm đệ trình lên văn phòng TTK LHQ, với nội dung ủng hộ Phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) 14-7-2016 (được thành lập theo thủ tục bắt buộc thuộc Phụ lục VII của Luật quốc tế về Biển (UNCLOS 1982).
Bước tiếp theo, để hành động chung của các quốc gia (actio popularis) trở thành một “luật chung” áp dụng cho các quốc gia có liên quan, tôi đã đề nghị VN nên đưa kết quả vận động này ra trước một Tòa án quốc tế, như Tòa Công lý quốc tế. VN có thể yêu cầu Tòa cho một “Ý kiến – Avis”, hay một phán quyết, rằng “cách giải thích Luật Biển và cách áp dụng Luật Biển theo Phán quyết của Tòa PCA ngày 14-7-2016 có giá trị erga omnes cho tất cả các quốc gia có liên quan”.
Về tranh chấp vùng Hoàng Sa. Hôm tuần rồi tôi có nhắc lại ý kiến của học giả Gregory Poling về đề nghị copy mô hình kiện của Phi áp dụng cho vùng Hoàng Sa. Tức là, VN mô phỏng theo “thủ tục bắt buộc” qui định ở Phụ lục VII UNCLOS để nhờ một Tòa (ad hoc) “giải thích Luật Biển và cách áp dụng Luật biển trong vùng biển Hoàng Sa”.
Ý kiến của học giả Gregory Poling không phải là mới. Cá nhân tôi đã có đề nghị tương tự từ tháng 7 năm 2016. Bài viết kèm dưới đây cho thấy điều này.
Dĩ nhiên ý kiến nào cũng có những sơ sót. Điều quan trọng là học giả VN phải có ý kiến cho những vấn đề của đất nước. Bài viết từ năm 2011 tôi đưa lại hôm trước tôi có nói rằng học giả VN không thể nào “tầm gởi” vào ý kiến của những học giả nước ngoài. Chuyện của VN phải do người VN lo liệu và quyết định. Tầm gởi vào ý kiến của bất kỳ ai, bất kỳ chủ nghĩa ngoại lai nào, đều là “tầm bậy”.
***
Kiện hay đàm phán ở Biển Đông?
Câu hỏi đã được các học giả tham gia “bàn tròn BBC” đặt ra, sau khi Tòa CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện TQ về các cách diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Kết quả phán quyết ra rao mọi người đều biết. Phi đã thắng lớn trong vụ kiện.
Đường chữ U chín đoạn, yêu sách của TQ về “quyền lịch sử” (và trong chừng mực “danh nghĩa lịch sử”) ở khu vực Biển Đông đã bị Tòa bác bỏ. Đơn giản vì các yêu sách về lịch sử này đã không được TQ chứng minh. Dầu vậy, theo Tòa, ngay cả khi các yêu sách (lịch sử) này được chứng minh, chúng cũng không còn ý nghĩa, vì nó đi ngược lại tinh thần Công ước về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Tòa cũng cho rằng các đảo thuộc TS không có cái nào được xem là “đảo” để có thể yêu sách vùng “kinh tế độc quyền” 200 hải lý. Phán quyết 12-7-2016 vì vậy hạn chế yêu sách của TQ thể hiện qua tấm bản đồ (đường 9 đoạn) gởi lên LHQ năm 2009.
Trên lý thuyết, yêu sách đường chữ U chín đoạn của TQ không còn lý do hiện hữu (ở vùng biển TS) nữa. VN vì vậy cũng thắng lớn.
Nguyên nhân thất bại của TQ, dĩ nhiên đến từ các yêu sách vừa phí lý, vừa quá lố của nước này. Nhưng chính yếu là do TQ đã không tham gia vụ kiện. Các động thái của TQ, ngay vừa khi Tòa bắt đầu nhận đơn của Phi, như cho bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo tại các bãi cạn, đá… mà họ chiếm được của VN năm 1988… đối với Tòa là một sự khiêu khích trắng trợn, coi thường luật pháp quốc tế.
Phán quyết ngày 12-7 của Tòa là một cái tát vào mặt TQ (và là một bài học cho VN). Đáng lẽ phán quyết đã không đến đỗi nặng nề như vậy. Nguyên lý là kẻ vắng mặt lúc nào cũng bị thiệt thòi.
VN kiện, hay đàm phán, về cái gì với TQ?
Phán quyết của Tòa CPA ngày 12-7 đã không chỉ giải quyết những tranh chấp giữa VN và TQ tại khu vực TS mà còn mở cho VN nhiều cơ hội pháp lý (và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị “đông lạnh” ít ra từ năm 1975 đến nay.
Cho rằng VN thắng lớn không phải là quá lố. Vấn đề Trường Sa coi như “không đánh mà thắng”, không mua mà được. VN còn có thể khai thác “chiến thắng” này cho khu vực Hoàng Sa, tranh chấp giữa VN và TQ. Bao gồm : tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và khác biệt lập trường phân định biển (đến từ các việc đối kháng về cách diễn giải về Luật Biển như vùng nước quần đảo, tình trạng pháp lý các thực thể ở Hoàng Sa…) .
Kiện, vấn đề thuộc “pháp lý”, đàm phán thuộc ngoại giao.
Vấn đề VN có thể kiện, hay đàm phán, TQ về cái gì tại Hoàng Sa?
Tranh chấp về chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ đã kéo dài hơn thế kỷ.
Từ thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhà nước bảo hộ Pháp, đã hai lần thách thức TQ giải quyết tranh chấp HS trước một trọng tài quốc tế. Cả hai lần TQ đều khước từ. TQ cũng không hề “đàm phán” với nhà nước bảo hộ Pháp về Hoàng Sa. Họ chờ dịp thuận tiện thì ra tay. Tháng giêng 1974 mở ra cho TQ cơ hội ngàn năm: VNCH đang bị VNDCCH uy hiếp về quân sự trong khi “đồng minh” Mỹ đã rút lui theo Hiệp định Paris 1973. TQ đưa quân chiếm trọn HS, qua một cuộc chiến bất cân xứng về lực lượng giữa hải quân TQ và hải quân VNCH.
Sau 1975, VNDCCH thắng trận và “thống nhứt đất nước”, không thấy hai bên VN và TQ đá động gì đến HS. Chỉ đến tháng giêng 1979, chiến tranh biên giới bùng nổ, VN ra tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS cũng như giải thích lại nội dung các tuyên bố đơn phương trước đây của VN liên quan đến chủ quyền HS và TS (như công hàm 1958).
Hòa bình được thiết lập, bang giao hai bên Việt-Trung được hàn gắn, từ đầu những năm 90, qua hệ quả của Hội nghị Thành Đô.
Từ đó đến nay không hề nghe có “đàm phán” nào giữa hai nước về Hoàng Sa. Việc phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt, tiếp nối theo việc phân định Vịnh Bắc Việt (hiệp ước ngày 25-12-2000), vẫn trong tình trạng bế tắc mặc dầu công trình phân định Vịnh Bắc Việt đã kết thúc từ lâu. Nguyên nhân dĩ nhiên đến từ tranh chấp chủ quyền cũng như hiệu lực các đảo HS.
Cho đến khi TQ kéo giàn khoan HY 981 đặt trên thềm lục địa VN, cách đảo Lý sơn của VN khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn (thuộc HS) khoảng 20 hải lý. Mâu thuẩn giữa hai bên VN và TQ mới được biểu lộ ra trước công chúng. Đối với VN, hành vi TQ đặt giàn khoan HY 981 nhằm thám hiểm, thăm dò thềm lục địa là xâm phạm đến quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN, được thiết lập theo Luật Biển 1982. Lập luận của TQ là giàn khoan HY 981 hoạt động trong khu vực biển và thềm lục địa của quần đảo HS.
Khủng hoảng đem đến do giàn khoan HY 981 hiển nhiên bắt nguồn từ việc đối kháng cách diễn giải bộ Luật Biển 1982 về “hiệu lực các đảo” thuộc quần đảo Hoàng Sa theo điều 121. Ngoài ra còn có quan điểm của TQ về “vùng nước quần đảo”, thể hiện qua hệ thống đường cơ bản của quần đảo HS mà TQ đã công bố từ năm 1996.
Khủng hoảng do giàn khoan HY 981 đem lại ít nhiều hệ quả trong xã hội VN. Dầu vậy vẫn không có “đàm phán” nào giữa hai bên VN và TS về vấn đề Hoàng Sa.
Tin tức từ trong nước cho biết, từ lâu, TQ không nhìn nhận “có tranh chấp với VN về HS”. Đối với TQ, HS là chuyện đã rồi, đã thuộc về TQ. TQ không chấp nhận bất kỳ một “đàm phán” nào với VN về vấn đề này.
Sau vụ giàn khoan HY 981, ta có thể khẳng định rằng tin tức nói trên là đúng.
Không hề có “đàm phán” nào giữa VN với TQ về vấn đề HS. Vị trí mà TQ đặt giàn khoan cho ta biết yêu sách về biển của TQ.
Vì vậy, ý kiến các học giả VN trên “bàn tròn BBC” hết sức là “bồng bột” khi cho rằng VN “không đàm phán song phương với TQ”.
Chưa bao giờ TQ muốn ngồi vào bàn đàm phán với VN về vấn đề HS cả.
Nhưng từ phán quyết ngày 12-7 của Tòa, VN có thể “ép” TQ ngồi vào bàn “đàm phán” với mình về tranh chấp Hoàng Sa.
VN có thể vịn vào 3 khoản:
1/ các đảo HS, tương tự như TS, không có cái nào phù hợp cho đời sống một cộng đồng dân chúng cũng như có thể có một nền kinh tế tự tại.
2/ không hiện hữu vùng nước quần đảo và,
3/ ngư trường Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân VN.
Từ những luận điểm này VN có thể “đàm phán song phương” với TQ để thực hiện các điều: 1/ phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt và xác định đường phân định giữa bờ biển VN và đảo Hải Nam. 2/ Trong vùng lãnh hải 12 hải lý các đá thuộc HS là ngư trường lịch sử của VN.
Đàm phán “song phương”, bởi vì các việc phân định biển và việc xác định ngư trường truyền thống các đá ở HS là chuyện “riêng” giữa VN và TQ.
Chỉ khi nào TQ một mực từ chối “đàm phán”, lúc đó ta mới có thể nghĩ đến việc đi kiện.
Bởi vì, việc “đi kiện” (trước Tòa án về Luật Biển) chỉ được một bên áp dụng khi mà mọi phương án “ngoại giao” (tức đàm phán) đều cạn kiệt. Luật Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282.
VN bị ràng buộc bởi các tuyên bố chung VN-TQ, theo đó hai bên giải quyết các tranh chấp thông qua thủ tục “đàm phán” và (việc đàm phán) dựa lên căn bản:
“Tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước… nghiêm túc thực hiện những Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”.
Do đó, ngay khi cả việc “đàm phán” đã kiệt, vì TQ không chấp nhận đàm phán, như vụ giàn khoan 981, việc đi kiện đối với VN vẫn không dễ.
Chúng ta đâu ai biết được “những nhận thức của lãnh đạo” về HS và TS là gì? Lãnh đạo này là ai ? (Nếu là ông Hồ hay ông Đồng, thì VN xem như mất HS và TS).
Những “thỏa thuận” giữa hai bên về “nguyên tắc cơ bản” gồm những nguyên tắc nào?
Vì vậy, theo tôi, nếu ta không làm sáng tỏ những chi tiết ghi trên thì việc “lo liệu hồ sơ” đi kiện cũng hoài công.
Bởi vì, tranh chấp giữa VN và TQ về HS đã trên 100 năm, tranh chấp TS bắt đầu từ sau Thế chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm. Từ 1975, VN đã có vô số cơ hội đi kiện TQ để giải quyết vấn đề mà VN đã không đi kiện.
Tranh chấp giữa TQ và Phi chỉ bộc phát mới đây. Phi chỉ bắt đầu yêu sách một số đảo TS từ thập niên 50, mà nguyên tắc về thụ đắc chủ quyền lãnh thổ của Phi cũng không tuân thủ theo tập quán quốc tế. Phi chỉ kiện TQ qua sự việc TQ chiếm các đá Scarborough, uy hiếp quân Phi ở bãi Cỏ Rong, cho xây dựng đảo nhân tạo ở bãi chìm Vành Khăn… Tức những sự kiện chỉ xảy ra mới đây, không quá 5 năm.
VN không kiện TQ hẵn nhiên có một số lý do tiềm ẩn. Và có thể VN sẽ không bao giờ kiện được TQ, cũng bởi những lý do tiềm ẩn này.
Nhưng từ phán quyết 12-7 của CPA, VN có thể vịn vào một số phán lệnh làm cơ bản, từ đó “ép” TQ ngồi vào đàm phán với mình về Hoàng Sa. Khi TQ chấp nhận đàm phán, tức là TQ đã nhìn nhận “có tranh chấp” ở HS.
Vì vậy lý lẽ của các học giả “không đàm phán song phương với TQ ở HS” không chỉ “bồng bột” mà còn thể hiện sự phi lý.
Nếu đi kiện, VN cũng không thể kiện ra ngoài nội dung các bảo lưu của TQ (về chủ quyền, về phân định biển). VN chỉ có thể kiện ở các nội dung tôi đã liệt kê ở trên. Mà theo các điều 282, 283 của Luật Biển, VN chỉ có thể kiện khi “đàm phán” đã kiệt.
Ý kiến của các học gia không chủ trương VN đàm phán với TQ, vậy thì VN có thể làm cái gì?
Nếu kiện thì kiện cái gì? Kiện ở đâu?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét