Bài đăng nổi bật

Minh Nhựa và Vương Đình Huệ

  Minh Nhựa và Vương Đình Huệ. Quá trình công tác từ bộ tài chính, tổng kiểm toán, phó thủ tướng, bí thư Hà Nội của Vương Đình Huệ là quãng ...

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Đảng Cộng sản còn tồn tại ở Trung Quốc được bao lâu nữa?


Đảng Cộng sản còn tồn tại ở Trung Quốc được bao lâu nữa?


Trung Nam Hải - biểu tượng quyền lực của Trung Quốc
Trung Nam Hải – biểu tượng quyền lực của Trung Quốc
Jamil Anderlini, Financial Times Magazine, 20/9/2013
Nằm lọt thỏm giữa trường gián điệp hàng đầu của Trung Quốc và Di Hòa Viên ở phía tây Bắc Kinh là nơi duy nhất ở xứ này người ta có thể công khai bàn về sự diệt vong của Đảng Cộng sản cầm quyền mà không sợ phải chuốc họa vào thân. Nhưng địa điểm xanh rợp bóng cây này không phải trụ sở của một tổ chức nghiên cứu có tư tưởng tự do được Mỹ tài trợ hay một cơ sở đối kháng hoạt động bí mật. Đây là Trường Đảng của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, học viện cao cấp dành cho các vị lãnh đạo độc tài của nước này, nơi được bộ máy tuyên truyền chính thức mô tả là “lò luyện tinh thần của đảng viên”.
Trường Đảng Trung ương được thành lập năm 1933 để giáo huấn cho cán bộ thấm nhuần chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin và về sau là Tư tưởng Mao Trạch Đông. Trong số các hiệu trưởng cũ có chính Mao Trạch Đông, chủ tịch mới được chọn Tập Cận Bình và vị tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào. Để thích ứng với một số thay đổi hệ trọng đã xảy ra trong xã hội Trung Quốc, chương trình giảng dạy đã được sửa đổi triệt để trong những năm gần đây. Học viên vẫn đắm mình trong những lời vàng ý ngọc của Tư bản luận và “Học thuyết Đặng Tiểu Bình” nhưng họ cũng được học kinh tế, luật, tôn giáo, các vấn đề quân sự và tư tưởng chính trị phương tây. Ngoài các buổi xem phim tài liệu chống tham nhũng và tham gia hát tập thể những bài ca cách mạng, học viên (gồm các cán bộ trung và cao cấp) được học cách thưởng thức opera và nghi lễ ngoại giao.
Trường Đảng Trung ương ở Bắc Kinh. (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Trường Đảng Trung ương ở Bắc Kinh. (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Một thay đổi quan trọng hơn đối với học viện được lập ra để bảo đảm tính thuần khiết ý thức hệ là học viện này đảm nhận một vai trò tương đối mới: là nơi sinh hoạt tri thức được thoải mái bàn bạc về mọi vấn đề mà gần như không có gì hạn chế. Một giáo sư Trường Đảng xin đừng nêu tên vì ông không được phép phát biểu với báo chí nước ngoài kể: “Chúng tôi vừa có một hội thảo với đông đảo đảng viên rất có thế lực và họ hỏi chúng tôi nghĩ là đảng sẽ còn nắm quyền bao lâu nữa và chúng tôi đã chuẩn bị gì cho thời điểm đảng sụp đổ. Thật tình mà nói, ai ai ở Trung Quốc cũng hỏi câu này nhưng tôi e rằng rất khó trả lời.” Những người kế tục cuộc cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông còn bấu víu vào quyền lực được bao lâu nữa đã là câu hỏi thường trực kể từ vụ thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô. Đã có nhiều tiên đoán u ám về việc Đảng Cộng sản sắp sụp đổ, để rồi tiên đoán vẫn hoàn tiên đoán, nhưng đảng vẫn tồn tại, thậm chí còn lớn mạnh hơn, đặc biệt kể từ khi đảng mở cửa đón nhận giới tư sản vào hàng ngũ đảng lần đầu tiên cách đây một thập niên. Ngày nay, đảng cách mạng của giai cấp vô sản có lẽ được mô tả rõ nhất là phòng thương mại lớn nhất thế giới, và tấm thẻ đảng là cách tốt nhất để giới doanh nhân tạo quan hệ và ký được các hợp đồng béo bở.
Trong vòng chưa đầy 5 năm nữa, Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thách thức ngôi vị của Liên Xô (69 hay 74 năm tùy cách tính) và Đảng Cách mạng Thể chế của Mexico (71 năm cho đến năm 2000) về kỷ lục thời gian cầm quyền liên tục lâu nhất của bất cứ chính đảng nào. Lý thuyết hiện đại hóa cho rằng các hệ thống độc tài có xu hướng dân chủ hóa khi thu nhập quốc dân tăng lên, rằng việc tạo ra một tầng lớp trung lưu đông đảo sẽ đẩy nhanh quá trình đó và rằng tình trạng suy thoái kinh tế sau một thời kỳ tăng trưởng nhanh sẽ khiến quá trình chuyển tiếp đó càng dễ xảy ra. Tình trạng bất bình đẳng trầm trọng và ngày càng tăng cộng với tham nhũng ở mức độ cao có thể tăng thêm động lực dẫn đến thay đổi.
Tất cả những yếu tố này hiện đã có ở Trung Quốc, nhưng có nhiều nhà lý thuyết chính trị, trong đó có nhiều người ở Trường Đảng Trung ương, nhận định rằng Trung Quốc có đặc trưng khác biệt về văn hóa và chính trị, và làn sóng sụp đổ của các chế độ độc tài vẫn đang tràn qua thế giới Ả Rập sẽ chẳng bao giờ đến Trung Quốc được. Nhưng cũng có nhiều người, trong đó có các trí thức Trung Quốc có ảnh hưởng, những nhà nghiên cứu Trung Quốc danh tiếng ở phương tây và thậm chí cả những đảng viên cao cấp có tư tưởng tự do, tin rằng đây là những ngày cuối cùng của kỷ nguyên Cộng sản và đảng sẽ bị cuốn trôi nếu không sớm cải cách chính trị nghiêm túc.
“Thiên thu vạn đại”
Trần Thư là giáo sư lịch sử đảng, “xây dựng đảng” và Tư tưởng Mao Trạch Đông ở Trường Đảng Trung ương và các quan điểm của ông phản ánh tư duy chính thống trong giới chóp bu của đảng. Tuy có nhiều hoạt động tri thức sôi nổi và thoải mái trao đổi ý tưởng diễn ra bên trong các bức tường của học viện, người nước ngoài vẫn bị cấm vào trường nếu không có giấy phép đặc biệt, quy định này có từ thời sự hiện diện của trường này là một bí mật quốc gia. Giáo sư Trần đã tử tế đồng ý gặp ký giả của Financial Times ở một tiệm trà đối diện Di Hòa Viên, nhưng ông tỏ ra khó chịu khi được hỏi ông nghĩ tương lai của đảng sẽ ra sao.
“Những lý thuyết đó về một cuộc khủng hoảng Trung Quốc hay sự sụp đổ của Trung Quốc đều hoàn toàn của phương tây,” ông nói bằng một giọng rõ ràng là dè bỉu từ “phương tây”. “Càng có nhiều áp lực đối với văn hóa Trung Quốc và đảng Cộng sản, văn hóa Trung Quốc và đảng Cộng sản càng đoàn kết và gắn bó, và càng có khả năng đạt được những phép lạ.”
Lâm Triết là một là giáo sư Trường Đảng Trung ương đã dành hai thập niên vừa qua nghiên cứu cách đảng xử lý tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên. Ở cùng tiệm trà đó, bà vui vẻ tiên đoán rằng đảng sẽ kỷ niệm 100 năm cầm quyền vào năm 2049 và nói rằng đảng sẵn sàng, nói như tục ngữ Trung Quốc, cai trị trong “thiên thu vạn đại” Nhưng cả hai giáo sư Lâm và Trần cũng cảnh báo rằng tính chính danh của đảng bị đe dọa do đại nạn tham nhũng đã lan đến mọi cấp trong hệ thống. Giáo sư Lâm nói: “Vấn đề này rất nguy hiểm, và như các vị lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc đã nói, nó có thể dẫn đến sự diệt vong của đảng và sự diệt vong của quốc gia.”
Giáo sư Lâm Triết bên ngoài Trường Đảng Trung ương (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Giáo sư Lâm Triết bên ngoài Trường Đảng Trung ương (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Tính bền bỉ của chế độ độc tài
Trong cuốn sách năm 1992 Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng (The End of History and the Last Man), Francis Fukuyama lập luận rằng nền dân chủ tự do phương tây đại diện cho hình thức cuối cùng của sự cai trị con người và điểm tận cùng của sự tiến hóa ý thức hệ. Lập luận của ông được củng cố bằng sự gia tăng đáng kể của dân chủ trong thế kỷ 20. Năm 1900, không có quốc gia nào trên thế giới có nền chính trị đa đảng mang tính cạnh tranh với hình thức bỏ phiếu phổ thông, và chỉ có khoảng 12% nhân loại sống trong một hình thức cai trị có thể được xem là có phần dân chủ, theo tổ chức phi chính phủ Freedom House ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ 21, 120 trong số 192 nước được quốc tế công nhận của thế giới được cai trị bằng các nền dân chủ có bầu cử, và 60% dân số thế giới sống trong một chế độ có lãnh tụ được bầu cử một cách dân chủ.
Fukuyama, nay là nghiên cứu viên cao cấp ở Đại học Stanford University, nói ông tin rằng Trung Quốc sẽ đi theo con đường của hầu hết các nước khác, có thể thông qua quá trình tự do hóa dần dần mà rốt cuộc sẽ nhường đường cho dân chủ. Nhưng nếu điều đó không xảy ra, ông nói cũng có thể xảy ra những cuộc nổi dậy của dân chúng giống như đã thấy trong biến cố Mùa xuân Ả Rập.
“Mô hình chính trị của Trung Quốc đơn giản là không bền vững do tầng lớp trung lưu ngày càng lớn mạnh – cũng giống như động lực đã thúc đẩy dân chủ ở khắp mọi nơi,” ông nói. “Thế hệ mới này ở Trung Quốc rất khác với thế hệ đã rời bỏ ruộng đất và thúc đẩy làn sóng công nghiệp hóa đầu tiên – họ có học vấn cao hơn nhiều và giàu hơn nhiều, và họ có những yêu sách mới, những yêu sách như không khí trong lành, nước sạch, thực phẩm an toàn, và những vấn đề khác không thể giải quyết được bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.”
Các ước tính về quy mô của tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc khác nhau tùy theo định nghĩa được dùng, nhưng có một điều chắc chắn là tầng lớp này gần như không tồn tại cách đây hai thập niên và hiện nay đang tăng với tốc độ chóng mặt. Hãng tư vấn McKinsey cho biết tầng lớp được họ gọi là “tầng lớp thượng trung lưu” – bộ phận dân số có thu nhập hộ gia đình hàng năm từ 17.350 đô-la đến 37.500 đô-la – chiếm khoảng 14% số hộ gia đình thành thị ở Trung Quốc hồi năm ngoái, nhưng sẽ chiếm khoảng 54% số hộ gia đình trong chưa đầy một thập niên nữa.
Trung Quốc thường được dùng làm bằng chứng phản bác lý thuyết của Fukuyama, qua đó giới phê bình cho rằng quá trình tái đổi mới liên tục của đảng có khả năng phản ứng trước những nhu cầu và yêu sách của công dân nhanh nhạy hơn nhiều so với các hệ thống độc tài truyền thống. Chỉ mới cách đây vài năm, David Shambaugh, giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington University và là một chuyên gia hàng đầu về hệ thống chính trị Trung Quốc, vẫn còn ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này. Nhưng ông đã thay đổi quan điểm và nay tin rằng đảng đang ở trong trạng thái suy tàn giống như thời kỳ hấp hối của các triều đại trong lịch sử.
Các dấu hiệu gồm có một ý thức hệ nhà nước rỗng tuếch mà xã hội không tin nhưng giả vờ tuân thủ cho có lệ, nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng, việc nhà nước không cung cấp cho dân chúng đủ phúc lợi xã hội và tâm trạng người dân đâu đâu cũng cảm thấy bất an và thất vọng. Những dấu hiệu khác bao gồm tình trạng bất ổn xã hội và sắc tộc ngày càng tăng, sự chia rẽ bè phái trong giới chóp bu, nạn đánh thuế quá cao với phần lớn nguồn thu rơi vào túi quan chức, tình trạng bất bình đẳng thu nhập trầm trọng và ngày càng tệ hại hơn, và không có chế độ pháp trị đáng tin cậy.
Shambaugh nói rằng một chỉ số rất đáng thuyết phục cho thấy người dân chẳng tin tưởng vào chế độ là số người giàu Trung Quốc có tài sản và nhà ở nước ngoài, tài khoản ngân hàng hải ngoại và có con cái du học ở các trường đại học phương tây.
“Những người này sẵn sàng tháo chạy trong tích tắc, ngay sau khi hệ thống chính trị bước vào thế tàn cuộc – nhưng họ vẫn ở lại Trung Quốc để bòn rút đến từng đồng nhân dân tệ cuối cùng chừng nào còn làm được cho đến thời điểm đó,” ông nói. “Hành vi phòng thân của họ bộc lộ rất rõ tính mỏng manh của nhà nước đảng trị ở Trung Quốc hiện nay.”
Xác ướp trong quan tài pha lê
Treo ngay trên cổng Thiên An ở lối vào phía nam của Tử Cấm Thành là một bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông nhìn từ quảng trường Thiên An Môn sang cái lăng uy nghi ở đối diện, nơi đặt xác ướp của ông quấn trong một lá cờ cộng sản. Mỗi buổi sáng trong tuần, trừ Thứ Hai, những hàng dài du khách Trung Quốc xếp rồng rắn quanh quảng trường để đợi đến dịp nhìn vị đại lãnh tụ nằm trong cái quách bằng pha lê.
Cách đây một thập niên, ta thường chứng kiến những người hành hương xúc động òa khóc hu hu và ngất xỉu quỳ gối khi thấy “vị hoàng đế đỏ” quá cố của Trung Quốc. Nhưng vào một hôm mới đây, cảm xúc chủ đạo của các khán giả dường như là thờ ơ hoặc hơi thất vọng. “Tôi phải xếp hàng đợi cả tiếng đồng hồ vì cái này à?” một người đàn ông trung niên nói với giọng nặng địa phương. “Không chừng đó chỉ là cái xác bằng sáp; thật phí thời gian.”
Sự thay đổi khó thấy này về thái độ [của dân chúng] trong thập niên vừa qua thể hiện một biến đổi sâu sắc hơn trong xã hội Trung Quốc rất khó lượng hóa nhưng ngày càng rõ rệt. Perry Link, giáo sư ở Đại California tại Riverside và là một trong những chuyên gia phương tây về Trung Quốc được tôn trọng nhất, nói: “Nền tảng ý thức hệ của đảng quả thực rất trống rỗng. Ngày nay người ta vào đảng chỉ để tạo quan hệ và tiến thân chứ không vì bất cứ lý tưởng xã hội chủ nghĩa nào cả.”
Có lẽ nhân tố kích thích quan trọng nhất dẫn đến tâm trạng hoài nghi và chất vấn gia tăng về quyền lực [của đảng] là sự trỗi dậy của thông tin liên lạc đại chúng qua internet. Chế độ kiểm duyệt trực tuyến của Trung Quốc là một trong những chế độ nghiêm ngặt nhất thế giới, với Twitter, Facebook, YouTube và vô số trang mạng và dịch vụ trực tuyến khác bị chặn bị đang lo sợ rằng những trang mạng và dịch vụ này có thể được dùng để tổ chức hoạt động đối kháng chính trị. Nhưng sự bùng nổ các trang mạng và dịch vụ nội địa do chính phủ kiểm soát, ví dụ như mạng Vi Bác tương tự như Twitter, vẫn giúp cho người dân phần nào né tránh tầm kiểm soát dư luận của đảng theo cách thức trước đây không thể làm được.
Khi nền kinh tế Trung Quốc chậm lại và người dân ngày càng phẫn nộ về biết bao vấn đề xuất phát từ việc không được tham gia vào hoạt động chính trị, chính sự mất kiểm soát về tư tưởng, ý tưởng và thông điệp này là điều khiến đảng vô cùng lo ngại.
“Bảy điều cấm bàn”
Thẩm Chí Hoa là giáo sư ở Đại học Sư phạm Hoa Đông chuyên về Liên Xô và có ba mẹ là sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân từng sát cánh cùng Mao Trạch Đông trong cuộc cách mạng. Hồi đầu thập niên 1980 ông ở tù hai năm sau khi bị buộc tội oan làm gián điệp cho CIA. Hồi tháng 9/2009, giáo sư Thẩm nằm trong số ít học giả tín cẩn được cựu chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân triệu tập để thảo luận sự sụp đổ của Liên Xô. “Gorbachev đã phản bội cách mạng,” Giang Trạch Dân nói với nhóm học giả này khi ông yêu cầu họ xác định những nhân tố cụ thể dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô.
Giáo sư Thẩm Chí Hoa (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Giáo sư Thẩm Chí Hoa (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Theo giáo sư Thẩm, nhận định của Giang Trạch Dân là quan điểm chính thống được chấp nhận trong giới lãnh đạo Trung Quốc trong đó có chủ tịch hiện nay Tập Cận Bình. Trong một bài phát biểu với các đảng viên ngay sau khi ông được chọn làm tổng bí thư và chủ tịch quân ủy trung ương hồi năm ngoái, Tập Cận Bình nói rằng đế chế Liên Xô sụp đổ “vì không có ai đủ dũng khí đứng lên kháng cự”.
Chuyên gia Shambaugh của Đại học George Washington, nói: “Tôi có nhấn mạnh cũng không thừa là giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục sống trong cái bóng Liên Xô – họ hiểu rất rõ các cải cách mà Gorbachev thực hiện và tuyệt đối không chịu đi theo con đường đó.”
Việc Tập Cận Bình thể hiện thái độ mạnh mẽ phù hợp với lập trường dứt khoát hơn mà ông bày tỏ trên trường quốc tế khi Trung Quốc tiếp tục vào vai trò “siêu cường quốc thứ hai” của thế giới. Nhưng trong khi chính quyền mới giễu võ dương oai ở nước ngoài, đáng chú ý nhất là những tranh chấp lãnh thổ âm ỉ với các nước láng giềng ở phía đông, nam và tây, có vẻ nghịch lý là chính quyền này càng lúc càng lo lắng và bất an ngay trong nước.
Giáo sư Perry Link nói: “Trung Quốc có sức mạnh về quân sự, ngoại giao và kinh tế nhiều hơn so với trước đây và hiện nay Trung Quốc có thể mạnh dạn bảo các nước như Vương quốc Anh và Mỹ tránh ra, chứ xưa kia không dám. Nhưng dù họ có được sức mạnh mới như vậy trong đối ngoại, dường như trong đối nội họ lại mỏng manh hơn nhiều, lo ngại nhiều hơn về việc họ còn trụ được bao lâu trên nắp vạc dầu đang sôi sùng sục này.”
Kể từ khi lên ngôi, Tập Cận Bình đã chỉ đạo một loạt các cuộc đàn áp nặng tay đối với giới bất đồng, tự do ngôn luận, giới ly khai sắc tộc và xã hội dân sự, và không hề bộc lộ dấu hiệu nào cho thấy ông là nhà cải cách chính trị ngấm ngầm như một số người đã hy vọng. “Văn kiện số chín”, một văn bản bí mật phân phát cho các cán bộ hồi tháng Tư và bị rò rỉ qua các phương tiện truyền thông tiếng Trung ở nước ngoài, cho thấy ban lãnh đạo mới lo ngại ra sao về những mối đe dọa được cảm nhận về sự cai trị của đảng. Văn kiện này viết: “Các thế lực thù địch phương tây và các thành phần bất đồng trong nước liên tục xâm nhập vào lĩnh vực ý thức hệ. Để giữ gìn sự nắm quyền của đảng, chúng ta nên chú ý đến những cách suy nghĩ, lập luận và hành động sai lầm.”
Theo văn kiện này, đảng đang đấu tranh “khốc liệt” chống lại bảy mối đe dọa nghiêm trọng mà hiện nay các giới học thuật Trung Quốc gọi là “bảy điều cấm bàn”. Đứng đầu trong danh sách này là “nền dân chủ lập hiến phương tây”, tiếp theo là những điều cấm kỵ như cổ xúy nhân quyền, hệ thống tư pháp độc lập, sự độc lập của báo chí, và việc phê phán quá khứ của đảng.
Giáo sư Thẩm Chí Hoa nói: “Nhiều người vô cùng thất vọng về những lời nói và hành động [của Tập Cận Bình]. Nhưng có một số người biện hộ cho ông và nói rằng sau khi củng cố quyền lực của mình và ổn định tình hình chính trị, ông sẽ tiến hành cải cách.” Theo cách lập luận này, thái độ dao động thiên về độc tài này của Tập Cận Bình chỉ mang tính chiến thuật chứ không phải chiến lược, một cách để vận động sự ủng hộ của các đảng viên trung kiên để chuẩn bị cho nghị trình cải cách gian nan trước mắt.
“Cách lý giải bi quan hơn, và thật tình thực tế hơn, là Tập Cận Bình chẳng có ý tưởng gì mới mẻ nên ông chỉ trích dẫn Mao Trạch Đông và cố bám víu quyền lực,” một nhà cải cách thuộc hàng “thái tử đảng” vốn là con trai của một lãnh tụ cấp cao Trung Quốc trước đây, người này hiểu Tập Cận Bình rất rõ nhưng yêu cầu không nêu tên vì sợ hậu quả chính trị. “Nếu đúng như vậy, thì Trung Quốc chẳng có hy vọng gì, và rốt cuộc nỗi phẫn nộ trong xã hội sẽ bùng nổ thành một cuộc nổi dậy của dân chúng.”
Đã hết phép màu?
Trong ba thập niên kể từ khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng cải cách định hướng thị trường và bắt đầu mở cửa Trung Quốc vươn ra thế giới, nền kinh tế nước này đã tăng trưởng với tỉ lệ trung bình 10% mỗi năm. Thành tích tuyệt vời này đã đưa hàng trăm triệu người dân ra khỏi cảnh đói nghèo và khiến một số người nhận định rằng “chủ nghĩa Lenin thị trường” của Trung Quốc đã thách đố cái lý thuyết cho rằng các xã hội sẽ dân chủ hóa khi giàu lên. Nhưng như Lưu Vũ, phó giáo sư chính trị học tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, và Trần Định Định ở Đại học Macau, viết trong tạp chí The Washington Quarterly hồi năm ngoái, “những ai theo thuyết ‘Trung Quốc là ngoại lệ’ đã phớt lờ rằng hiện nay còn quá sớm nên chưa thể nói liệu Trung Quốc chứng minh hay bác bỏ lý thuyết hiện đại hóa.”
GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là khoảng 9.200 đô-la tính theo ngang bằng sức mua trong năm 2012, nhưng theo Lưu Vũ và Trần Định Định, con số này vẫn chưa đạt đến mức khởi đầu của những nước có bối cảnh văn hóa và lịch sử tương tự khi họ chuyển tiếp sang nền dân chủ. Theo Lưu Vũ và Trần Định Định, năm 1988, Hàn Quốc và Đài Loan đang dân chủ hóa có GDP bình quân đầu người tính theo ngang bằng sức mua lần lượt là 12.221 đô-la và 14.584 đô-la (theo mức giá 2010). Các mức của Liên Xô và Hungary năm 1989, khi họ bắt đầu quá trình chuyển tiếp chính trị của họ, lần lượt là 16.976 đô-la và 11.257 đô-la (theo mức giá 2010).
Những con số này cho thấy sự tăng trưởng kinh tế nhanh liên tục ở Trung Quốc sẽ đẩy đất nước này đến đỉnh điểm chuyển biến chính trị chỉ trong vài năm nữa. Theo cách lập luận này, nguyên nhân chủ yếu mang lại tính chính danh cho đảng kể từ khi từ bỏ chủ nghĩa Mao – khả năng của đảng trong việc tạo ra tăng trưởng nhanh và nâng cao mức sống – cũng chính là điều rốt cuộc sẽ khiến đảng mất quyền kiểm soát chính trị tuyệt đối.
Nhưng hiện nay có nhiều dấu hiệu rõ rệt cho thấy mô hình kinh tế thiên về đầu tư, định hướng xuất khẩu, do nhà nước nắm vai trò chủ đạo của Trung Quốc đang hết hơi và tốc độ tăng trưởng có thể giảm mạnh hơn so với kỳ vọng của của Bắc Kinh. Tỉ lệ tăng trưởng danh nghĩa so sánh cùng kỳ hàng năm của Trung Quốc đã giảm từ 17% trong quý tư 2011 xuống còn khoảng 8% trong quý hai năm nay, và tỉ lệ tăng trưởng năm ngoái là mức thấp nhất trong 13 năm. Hầu hết các nhà kinh tế học dự đoán rằng tốc độ này sẽ ở mức vừa phải trong vài năm tới.
Xét theo hầu hết các số đo, Trung Cộng hiện nay là một trong những xã hội bất bình đẳng nhất thế giới, với hầu hết của cải tập trung trong tay một nhóm nhỏ chóp bu có quan hệ chính trị. Nếu bước tăng trưởng chậm hiện nay chuyển thành một cuộc khủng hoảng kinh tế hoặc gây thất nghiệp lan tràn, hầu hết các nhà phân tích tin rằng chẳng mấy chốc chính quyền sẽ phải đương đầu với cuộc nổi dậy của dân chúng dưới một hình thức nào đó. Mao Vu Thức, nhà kinh tế học 84 tuổi được xem là cây đại thụ của kinh tế học vĩ mô Trung Quốc hiện đại, nói: “Trong hai thế kỷ qua, 30 năm gần đây nhất là thời kỳ kéo dài duy nhất không có chiến tranh, nạn đói hay thanh trừng đại trà, một thời kỳ mà đời sống của mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Tính chính danh của chế độ chủ yếu xuất phát từ thành công của cải cách kinh tế nhưng vấn đề lớn là các kỳ vọng hiện nay ở mức quá cao.”
Nhà kinh tế học Mao Vu Thức (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Nhà kinh tế học Mao Vu Thức (Ảnh: Eric Gregory Powell)
Nhà kinh tế học lão thành này đã bị thanh trừng nhiều lần trong thời kỳ Mao Trạch Đông. Trong 20 năm, ông nhiều lần bị bắt đi lao động khổ sai ở nông thôn, bị đánh đập và sỉ nhục. Sau thời gian cải tạo chính trị, năm 1993 ông thành lập  Viện Thiên Tắc (Unirule Institute), một tổ chức nghiên cứu kinh tế độc lập, và ông vẫn còn có ảnh hưởng lớn đối với những nhà cải cách trong đảng và chính quyền.
Mao Vu Thức tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ gặp một cuộc khủng hoảng tài chính “không thể tránh khỏi” trong vòng từ một đến ba năm nữa do tích lũy nợ xấu quá nhiều và bong bóng bất động sản khổng lồ, nhưng ông nghĩ chính điều này lại có thể đẩy đất nước đến nền dân chủ. Ông nói: “Tôi nghĩ một cuộc khủng hoảng tài chính thực sự có thể tốt cho Trung Quốc vì nó sẽ buộc chính phủ thực hiện các cải cách kinh tế và chính trị. Đó là kịch bản lạc quan nhất, nhưng kịch bản xấu nhất sẽ là một cuộc nổi dậy bạo lực, tiếp theo là một thời gian dài biến động và suy tàn kinh tế, như ta thấy ở Ai Cập.”
Ví dụ tiêu cực Ai Cập hiện nay thường được các nhà phân tích chính trị của cả Trung Quốc lẫn phương tây viện dẫn. Giống như nhà cựu độc tài Ai Cập Hosni Mubarak, đảng cộng sản xưa nay đã rất thành công trong việc đập tan bất cứ lực lượng có tổ chức nào trong xã hội trước khi nó có thể bén rễ. Giáo sư Perry Link nói: “Hệ thống Trung Quốc hiện nay nhất định sẽ sụp đổ vào một thời điểm nào đó – có thể là mấy tháng, mấy năm hay mấy thập niên, nhưng khi nó sụp đổ hẳn nhiên ai ai cũng sẽ nói là chuyện đó đã chắc chắn xảy ra. Câu hỏi thực sự làm tôi lo là những gì diễn ra sau đó. Đảng đã xóa sổ bất cứ nhóm nào đảng không kiểm soát được hoặc không có cùng thế giới quan với đảng, và sẽ không còn lại gì để thế chỗ cho đảng.”
Lời nguyền Thế vận hội
Lịch sử có một trùng hợp lý thú là không có chế độ độc tài nào ngoại từ chế độ của Mexico tồn tại hơn một thập niên sau khi đăng cai Thế vận hội – này nhé, thử nhớ lại Berlin năm 1936, Moscow năm 1980, Sarajevo năm 1984 và Seoul năm 1988. Năm năm nữa, Đảng Cộng sản Trung Quốc, vốn xem Thế vận hội Bắc Kinh 2008 là “tiệc ra mắt” trên trường quốc tế, có thể không chỉ thách thức lời nguyền Thế vận hội này mà còn phá kỷ lục tuổi thọ của Liên Xô và góp phần bác bỏ thuyết dân chủ hóa.
Nhưng ngay cả những người ủng hộ đảng nhiệt thành nhất cũng thừa nhận rằng giới lãnh đạo Trung Quốc không thể cai trị mãi mà không đáp ứng các yêu sách được tham gia hoạt động chính trị của một tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo quan tâm nhiều hơn về không khí trong lành, nước sạch, chính phủ trong sạch và thực phẩm an toàn hơn là tỉ lệ tăng trưởng GDP.
Sau ba thập niên phát triển kinh tế xuất sắc, mô hình tăng trưởng của Trung Quốc đang bắt đầu hụt hơi và nếu phải đối mặt với sự sút giảm đột ngột, đảng sẽ đánh mất nguyên nhân đáng thuyết phục nhất mang lại tính chính danh của đảng. Nếu chủ tịch mới của Trung Quốc, Tập Cận Bình, nắm thế chủ động và khởi xướng các cải cách chính trị có ý nghĩa, thì Trung Quốc có thể noi gương Đài Loan và Hàn Quốc vào cuối thập niên 1980 và 1990, và dàn xếp một quá trình chuyển tiếp êm thắm sang một hệ thống đa nguyên và dân chủ hơn.
Tại ngôi trường rợp bóng cây của Trường Đảng Trung ương, một số giáo sư hiện đã nghiên cứu làm sao để đạt được kỳ tích như vậy. Nhưng đến nay Tập Cận Bình chưa tỏ ý muốn làm gì ngoài việc siết chặt sự kiểm soát quyền lực của đảng và trừng trị những ai nghi vấn chế độ cai trị độc đảng vĩnh viễn.
Nhiều người trong và ngoài đảng lo ngại rằng do cố gắng trấn áp nỗi bất bình ngày càng tăng của dân chúng bằng những công cụ đàn áp cũ, một ngày nào đó chính quyền mới có thể tỉnh dậy và thấy quần chúng xuống đường biểu tình. Giáo sư Thẩm Chí Hoa nói: “Tập Cận Bình và chính quyền này tạo ra cơ hội cuối cùng để Trung Quốc thực hiện sự chuyển biến xã hội [sang một hệ thống chính trị tự do hơn] xuất phát từ bên trong đảng và từ bên trong hệ thống. Nếu không có những cải cách này, chắc chắn sẽ có sự bùng nổ xã hội.”
Bản tiếng Anh: How long can the Communist party survive in China?, Financial Times Magazine, 20/9/2013.

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Chúng ta chết mòn vì bị đầu độc


Chúng ta chết mòn vì bị đầu độc


 
Một người thân của tôi mất ở tuổi 60. Anh bị ung thư. Gia đình, bà con, đồng nghiệp, bạn bè ai cũng thương anh. Ai cũng nghĩ, anh mới 60 tuổi, trẻ quá!
Nhưng ở nghĩa trang, tôi thấy ở gần mộ anh có nhiều người chết trẻ hơn anh. Trên bia mộ, sau hai chữ “hưởng dương”, ba mấy có, bốn mấy có, năm mấy có. Tôi nghĩ bụng, anh mình còn được hưởng thọ, chứ những người kia chỉ được hưởng dương, tội thật!
Ngồi uống nước với bác trông coi nghĩa trang, tôi bảo, ở đây có nhiều người chết trẻ. Bác thở dài nói những người chết trẻ ở nghĩa trang này chủ yếu vì một trong hai thứ: ung thư hoặc tai nạn giao thông. Tôi nghĩ, ở nghĩa trang nào cũng thế.
Nhạc sĩ – ca sĩ Trần Lập cũng vừa ra đi ở tuổi 42, trong sự tiếc thương của hàng triệu người hâm mộ. Vẫn là căn bệnh đó – ung thư. Trần Lập chỉ là một trong khoảng 75.000 người chết vì ung thư mỗi năm ở Việt Nam. Anh là người của công chúng nên cái chết của anh được nhiều người biết đến và chia sẻ. Hầu hết những nạn nhân ung thư khác chết thầm lặng hơn nhiều, trong nỗi đau của gia đình, người thân. Số ngón tay, ngón chân của tôi không đủ để đếm những người là họ hàng, đồng nghiệp, bạn bè của tôi chết vì ung thư. 
Mỗi năm nước ta có khoảng 150.000 người bị phát hiện ung thư mới và khoảng 75.000 người chết vì bị ung thư trước đó. Số người chết vì bệnh ung thư hàng năm sẽ ngày càng tăng, vì đã bị ung thư thì cầm chắc cái chết, chỉ là sớm hay muộn thôi, y học đến nay chưa chữa được. Sẽ không có gì là quá nếu hình dung trong 10 năm tới, tổng số người chết vì ung thư ở nước ta sẽ vào khoảng gần một triệu. Một số quốc gia nhỏ chỉ có mấy triệu người dân thôi. Số người chết vì ung thư ở nước ta chỉ trong mấy chục năm có thể bằng cả một quốc gia bị xóa sổ.
Ung thư xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng một trong số đó là môi trường sống ở nước ta quá độc hại. Chúng ta ăn bẩn, uống bẩn, thở bẩn, ở bẩn. Các hóa chất nguy hiểm cho sức khỏe ở khắp nơi, ngấm vào cơ thể người bằng nhiều cách, trong đó mối nguy hiểm lớn nhất về thực phẩm độc hại đến từ những kẻ kinh doanh bất lương.
Chúng ta sốc và phẫn nộ trước thông tin 6 triệu con lợn có thể đã được cho ăn chất salbutamol để tạo nạc, cho “đẹp thịt”. Không biết thịt của 6 triệu con lợn nhiễm salbutamol đó đã vào bụng bao nhiêu triệu người Việt Nam? Không biết ngoài 6 triệu con lợn đó thì còn bao nhiêu triệu con lợn được cho ăn, được tiêm những hóa chất độc hại khác? Không biết hàng chục triệu, hàng trăm triệu con gia súc, gia cầm không phải là lợn được người ta cho ăn những hóa chất độc hại nào nữa? Không biết bao nhiêu triệu tấn rau, quả được những kẻ bất lương tưới các loại hóa chất độc hại lên để đánh lừa người dân về chất lượng? Không biết bao nhiêu đồ ăn, đồ uống có hóa chất được hại được bán cho người Việt ăn, uống hàng ngày?
Chúng ta không biết cụ thể bao nhiêu, nhưng biết chắc chắn là rất nhiều. Khi mà người ta quá quắt đến mức trồng riêng “rau để ăn” và “rau để bán”, nuôi riêng “con để ăn” và “con để bán”, lượng thực phẩm bị nhiễm các hóa chất độc hại được đưa ra thị trường rất nhiều. Người tiêu dùng làm sao phân biệt được? Người tiêu dùng biết thực phẩm ở đâu thực sự an toàn mà mua? Người ta còn cho hóa chất vào cà phê, vào rượu để người mua uống cho “phê” nữa chứ.
Các cơ quan quản lý ở nước ta gần như bất lực trước thực trạng thực phẩm bẩn và các vi phạm nghiêm trọng về vệ sinh, an toàn thực phẩm liên quan đến hóa chất. Hầu hết các trường hợp bị phát hiện được xử phạt hành chính, rất ít vụ được xử lý hình sự. Nhưng tình hình vệ sinh, an toàn thực phẩm ngày càng xấu thêm. Đã đến lúc cần mạnh tay trừng trị, bỏ tù những kẻ sản xuất, kinh doanh thực phẩm độc hại. Vì đồng tiền, họ đã và đang đầu độc cả dân tộc ta.
Lương Hoài Nam

Biển Đông: Malaysia và Indonesia phản kích Bắc Kinh, Việt Nam làm gì?


Biển Đông: Malaysia và Indonesia phản kích Bắc Kinh, Việt Nam làm gì?


 
Là hai nước nổi tiếng là thường tránh trực tiếp đả kích Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, Malaysia và Indonesia trong tháng 03/2016 đã bất ngờ công khai tỏ thái độ cứng rắn trước một số hành vi lấn lướt của Bắc Kinh ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của hai quốc gia Đông Nam Á.
Theo các nhà phân tích, phản ứng của Kuala Lumpur và Jakarta là điều cần thiết để cảnh cáo Bắc Kinh là không nên coi Biển Đông là ao nhà của mình. Vấn đề đặt ra là các nước khác trong khu vực, trong đó có Việt Nam, cũng cần lên tiếng ủng hộ Malaysia và Indonesia để chống lại đà bành trướng của Trung Quốc.
Vụ việc liên quan đến Indonesia xẩy ra ngày 19/03/2016 khi một tàu tuần tra của Indonesia bắt giữ một tàu cá Trung Quốc cùng với thủy thủ đoàn gồm tám người đang đánh bắt trộm trong vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo Natuna. Thế nhưng, trên đường kéo tàu cá Trung Quốc về bờ, tàu tuần duyên Trung Quốc đã xông vào giải cứu tàu cá vi phạm, buộc Indonesia phải bỏ tàu cá Trung Quốc lại.
Ngay sau sự cố, ngày 21/03, bộ trưởng bộ Thủy Sản Indonesia, bà Susi Pudjiastuti, đã tổ chức họp báo quốc tế lên án hành vi thô bạo của Bắc Kinh, thậm chí tuyên bố công khai là Indonesia không loại trừ việc kiện Trung Quốc ra Tòa Án Quốc Tế về hành vi vi phạm này.
Trung Quốc quá đáng, Indonesia bị “tức nước vỡ bờ”
Indonesia và Trung Quốc không tranh chấp Biển Đông, nhưng đường lưỡi bò mà Trung Quốc vạch ra để yêu sách chủ quyền trên Biển Đông lại ăn vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ngoài khơi quần đảo Natuna nằm sát Biển Đông. Trong thời gian qua, lực lượng Hải Cảnh Trung Quốc có mặt trong khu vực, đã không ngần ngại can thiệp để xua đuổi ngư dân Indonesia hay sách nhiễu lực lượng kiểm ngư Indonesia để bảo vệ tàu cá Trung Quốc.
Tuy nhiên, những sự cố như trên thường được Jakarta ém nhẹm để khỏi đụng chạm đến Trung Quốc. Vậy tại sao lần này Indonesia lại phản ứng mạnh mẽ như vậy ?
GS. Ngô Vĩnh Long : « Bắc Kinh leo thang để dò phản ứng »
Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ), chính thái độ ngoan cố và bất chấp phải trái của Trung Quốc đã khiến cho Indonesia bị “tức nước vỡ bờ”. Trả lời RFI, giáo sư Long ghi nhận :
« Việc Trung Quốc đưa tàu cá vào vùng quần đảo Natuna đã xảy ra rất nhiều lần rồi, nhưng vì Indonesia muốn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc, cho nên chỉ phản ứng nhẹ nhàng thôi. Nhưng kỳ này, ngày 19/03 vừa qua, khi tàu cá Trung Quốc bị tàu của Indonesia bắt giữ, thì lập tức tàu tuần dương của Trung Quốc xông tới cắt đứt giây cáp, cướp lại tàu cá.
Đối với Indonesia, đây là một hành vi quá mức, vì thế Indonesia không những nói công khai chuyện này trước báo chí, mà lại còn dọa đưa vấn đề này ra tòa.
Sự kiện kể trên cho thấy thái độ rất ngoan cố và bắt chấp phải trái của Trung Quốc. Tuy đảo Natuna nằm giáp ranh đường lưỡi bò và trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói rằng tàu cá Trung Quốc đang hoạt động trong vùng « đánh cá truyền thống của Trung Quốc » khi bị tàu của Indonesia đe dọa cho nên tàu tuần dương của Trung Quốc phải đến trợ giúp.
Đây rõ ràng là một hành động leo thang, một dạng thách thức của Trung Quốc, để xem thử coi Indonesia, các nước trong và ngoài khu vực phản ứng như thế nào đối với sự leo thang này ».
Như giáo sư Long vừa phân tích, Trung Quốc đang triển khai chiến lược khống chế Biển Đông, và sẵn sàng có những hành vi cực kỳ khiêu khích để thăm dò phản ứng của các nước khác.
Chiến thuật ‘biển tàu’ để khiêu khích Malaysia
Vụ Bắc Kinh ngày 24/03 vừa qua đã tung cả trăm tàu cá vào vùng biển mà Malaysia tuyên bố chủ quyền gần bãi South Luconia Shoals cũng nhằm mục tiêu đó. Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 26/03 đã nêu bật việc các sự cố mới nhất liên quan đến tàu cá Trung Quốc đều xẩy ra sau khi Bắc Kinh tiếp tục công khai khuyến khích ngư dân Trung Quốc tràn xuống Biển Đông, một phương thức thâm hiểm khác để áp đặt chủ quyền.
Hành động của Trung Quốc đã khiến Malaysia phải điều tàu và máy bay đến nơi tăng cường giám sát, đồng thời lên tiếng cảnh cáo là lực lượng chấp pháp Malaysia sẽ can thiệp nếu tàu cá Trung Quốc đánh bắt bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia.
Đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, dù không muốn đụng chạm Trung Quốc như họ vẫn thường làm, lần này chính quyền Malaysia không thể ngồi yên do tính chất “quá đáng” của vụ việc :
« Chuyện này đã xẩy ra nhiều lần rồi. Chính phủ Malaysia đã phải báo cáo nhiều lần cho dân chúng, cho Thượng Viện nước này, nhưng lần này là một chuyện quá đáng.
Một ví dụ là trong cuộc tường trình vào tháng 03/2015 trước Thượng Viện, bộ trưởng Phủ Thủ Tướng kiêm giám đốc Cục Tuần Tra Hải Phận của Malaysia (Malaysian Maritime Enforcement Agency), ông Shahidan Kassim, đã cho biết rằng tàu Trung Quốc thường xuyên vi phạm vùng biển South Luconia Shoals trong hai năm trước đó. Đây là vùng cách bờ biển Sarawak 84 hải lý.
Do đó, Cục Tuần Tra Malaysia đã phải tăng tuần tra vùng này từ 269 ngày trong năm 2014 lên đến 345 ngày trong năm 2015. Việc tăng tuần tra tốn rất nhiều tiền, cho nên chính phủ Malaysia phải qua Thượng Viện xin thêm tiền.
Hơn thế nữa, các tàu tuần dương của Trung Quốc đã dùng vũ lực để xua đuổi tàu cá Malaysia ra khỏi vùng South Luconia Shoals. Do đó, chỉ còn có tàu đánh cá Trung Quốc là tự do hoạt động trong vùng này trong khi ngư dân ở vùng Sarawak không thể hành nghề truyền thống của họ nữa.
Do đó, cách nay hơn một tháng, có hơn 20 hiệp hội ngư dân vùng Sarawak biểu tình và đòi chính phủ Malaysia phải có thái độ dứt khoát ».
Ngay từ trước lúc nổ ra vụ 100 tàu cá Trung Quốc, Malaysia, qua lời bộ trưởng Quốc Phòng Hishammuddin Hussein hôm 14/03, đã công khai tuyên bố quan ngại trước việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, cho rằng nếu thật sự là như vậy, thì Malaysia sẽ phải kết hợp với những nước khác để “đẩy lùi” – tiếng Anh là “push back” – Trung Quốc. Trước mắt, Malaysia đã hội ý với Úc, và có ý định tham khảo thêm Việt Nam và Philippines.
Đối với giáo sư Ngô Vĩnh Long, sự kiện bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia dùng đến từ ngữ “đẩy lùi”, rất đáng chú ý.
Cần đồng thanh chống Trung Quốc coi thường luật quốc tế
Chính quyền Việt Nam cho đến lúc này vẫn im hơi lặng tiếng trước các diễn biến trên đây liên quan đến các hành vi quá đáng của Trung Quốc. Rất có thể là vì vấn đề Natuna ở Indonesia, hay South Luconia Shoals ở Malaysia không liên can trực tiếp đến Việt Nam.  
Tuy nhiên, theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, vấn đề là Trung Quốc đã có những hành vi leo thang, coi thường luật lệ quốc tế ở Biển Đông. Khái niệm « ngư trường truyền thống » mà Bắc Kinh đưa ra chẳng hạn, để giải thích cho việc ngư dân họ đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia là điều hoàn toàn trái với luật quốc tế, nhất là khi ngư trường truyền thống đó lại ở rất xa Trung Quốc.
Do vậy, theo giáo sư Long, phía Việt Nam phải lên tiếng khẳng định một cách rõ ràng là sẽ ủng hộ những cố gắng của Malaysia cũng như của các nước khác trong khu vực và trên thế giới, buộc Trung Quốc phải phục tùng luật pháp quốc tế và xuống thang ở Biển Đông.
Nhìn rộng ra, Việt Nam phải tiếp tục lên tiếng phản đối mọi hành vi coi thường luật lệ quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, và tuyệt đối không được tạo ra cảm giác là mình chấp nhận sự đã rồi do Bắc Kinh áp đặt :
« Việt Nam nên liên tục lên tiếng về sự đe doạ an ninh của Trung Quốc bằng cách quân sự hoá các đảo mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm ở Biển Đông. Việt Nam nên thường xuyên vận động dư luận quốc tế về việc đánh chiếm của Trung Quốc để cho Trung Quốc chồn chân.
Lẽ dĩ nhiên, trước mắt Trung Quốc sẽ tiếp tục xây cất trên các đảo đã chiếm, nhưng Trung Quốc sẽ khó leo thang bằng cách đánh chiếm thêm nếu Việt Nam và các nước khác thường xuyên lên tiếng cảnh báo.
Hơn thế nữa, Việt Nam nên tìm mọi cách để « đẩy lùi » Trung Quốc như tuyên bố của bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia và nhất thiết cho mọi người biết rõ ràng là Việt Nam không chấp nhận sự chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc như là chuyện đã rồi. »
Trên đây là trích đoạn các phân tích của Giáo sư Ngô Vĩnh Long về những gì Việt Nam cần làm trước các hành vi leo thang của Trung Quốc tại Biển Đông nhắm vào Indonesia và Malaysia.
 *
Toàn văn bài phỏng vấn giáo sư Ngô Vĩnh Long:
RFI : Giáo sư đánh giá sao về phản ứng tương đối cứng rắn của Indonesia?
GS. Ngô Vĩnh Long : Việc Trung Quốc đưa tàu cá vào vùng quần đảo Natuna đã xảy ra rất nhiều lần rồi, nhưng vì Indonesia muốn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc, cho nên chỉ phản ứng nhẹ nhàng thôi. Nhưng kỳ này, ngày 19/03 vừa qua, khi tàu cá Trung Quốc bị tàu của Indonesia bắt giữ, thì lập tức tàu tuần dương của Trung Quốc xông tới cắt đứt giây cáp, cướp lại tàu cá.
Đối với Indonesia, đây là một hành vi quá mức, vì thế Indonesia không những nói công khai chuyện này trước báo chí, mà lại còn dọa đưa vấn đề này ra tòa.
Sự kiện kể trên cho thấy thái độ rất ngoan cố và bắt chấp phải trái của Trung Quốc. Tuy đảo Natuna nằm giáp ranh đường lưỡi bò và trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói rằng tàu cá Trung Quốc đang hoạt động trong vùng « đánh cá truyền thống của Trung Quốc » khi bị tàu của Indonesia đe doạ cho nên tàu tuần dương của Trung Quốc phải đến trợ giúp.
Đây rõ ràng là một hành động leo thang, một dạng thách thức của Trung Quốc để xem thử coi Indonesia, các nước trong và ngoài khu vực phản ứng như thế nào đối với sự leo thang này.
Cùng một lúc, Trung Quốc đưa cả 100 tàu cá vào trong vùng biển của Malaysia. Đây không phải là chuyện mới, mà đã xẩy ra rất nhiều lần, đặc biệt trong hai năm 2014, 2015, và Malaysia đã nhiều lần cảnh cáo Trung Quốc về việc cho tàu cá thường xuyên vi phạm vùng biển của Malaysia.
RFI : Malaysia là nước thướng phản ứng kín đáo và nhẹ nhàng trước các hành động của Trung Quốc, kể cả khi Trung Quốc tới bãi James Shoal của Malaysia để thị uy. Vì sao Malaysia lại đột nhiên có vẻ cứng giọng trên vấn đề Trung Quốc tại Biển Đông?
GS. Ngô Vĩnh Long : Bởi vì chuyện này đã xẩy ra nhiều lần rồi. Chính phủ Malaysia đã phải báo cáo nhiều lần cho dân chúng, cho Thượng Viện nước này, nhưng lần này là một chuyện quá đáng.
Một ví dụ là trong cuộc tường trình vào tháng 03/2015 trước Thượng Viện, bộ trưởng phủ thủ tướng, kiêm giám đốc Cục Tuần tra Hải phận của Malaysia, ông Shahidan Kassim, đã cho biết rằng tàu Trung Quốc đã thường xuyên vi phạm vùng biển gọi là South Luconia Shoals trong hai năm trước đó.
Đây là vùng cách bờ biển Sarawak 84 hải lý. Do đó, Cục Tuần Tra nói trên gọi là (Malaysian Maritime Enforcement Agency) đã phải tăng tuần tra vùng này từ 269 ngày trong năm 2014 lên đến 345 ngày trong năm 2015. Việc tăng tuần tra tốn rất nhiều tiền, cho nên chính phủ Malaysia phải qua Thượng Viện xin thêm tiền.
Hơn thế nữa, các tàu tuần dương của Trung Quốc đã dùng vũ lực để xua đuổi các tàu cá của Malaysia ra khỏi vùng South Luconia Shoals. Do đó chỉ còn có tàu đánh cá của Trung Quốc là tự do hoạt động trong vùng này trong khi ngư dân ở vùng Sarawak không thể hành nghề truyền thống của họ nữa.
Do đó, cách nay hơn một tháng, có hơn 20 hiệp hội ngư dân vùng Sarawak biểu tình và đòi chính phủ Malaysia phải có thái độ dứt khoát. Vì vây, vào trung tuần tháng 3 này Bộ trưởng Quốc Phòng Datuk Seri Hishammuddin Hussein đã phải tuyên bố tại Kuala Lumpur khi ông trả lời một cuộc phỏng vấn của báo chí là Trung Quốc đã lấn áp Malaysia quá nhiều, và nếu các thông tin về việc Trung Quốc tăng cường vũ khí trên các đảo Trường Sa là đúng, thì đã đến lúc Malaysia phải đẩy lùi (pushback) sự lấn áp của Trung Quốc.
Từ “pushback” là một từ mà Malaysia ít khi, nếu không nói là chưa bao giờ, dùng trong quan hệ với một nước khác, thế mà chỉ một tuần sau đó, Trung Quốc lại đưa một trăm tàu cá vào vùng biển của Malaysia ngoài khơi Sarawak, để thách thức Malaysia.
RFI : Việt Nam có thể đề nghị gì khi được Malaysia tham khảo?
GS. Ngô Vĩnh Long : Nếu tôi nhớ không nhầm thì bộ trưởng Hishammuddin nói là ông gặp gỡ và đàm phán với các đối tác Việt Nam, Philippines và Úc để bàn về những động thái của Trung Quốc mà ông cho là có thể để quân sự hoá Biển Đông.
Cho đến nay, trước công chúng giới chức Việt Nam chỉ có những tuyên bố trống không và mơ hồ. Kể cả trong việc Philippines kiện Trung Quốc ra trước Toà Án Thường Trực, mà nếu thắng thì Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất, thì Việt Nam cũng chưa có lời ủng hộ rõ rệt và dứt khoát.
Cho nên tôi nghĩ rằng Việt Nam nên liên tục lên tiếng về sự đe doạ an ninh của Trung Quốc bằng cách quân sự hoá các đảo mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm ở Biển Đông. Việt Nam nên thường xuyên vận động dư luận quốc tế về việc đánh chiếm của Trung Quốc để cho Trung Quốc chồn chân.
Lẽ dĩ nhiên trước mắt Trung Quốc sẽ tiếp tục xây cất trên các đảo đã chiếm, nhưng Trung Quốc sẽ khó leo thang bằng cách đánh chiếm thêm nếu Việt Nam và các nước khác thường xuyên lên tiếng cảnh báo.
Hơn thế nữa, Việt Nam nên tìm mọi cách để « đẩy lùi » Trung Quốc như tuyên bố của bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia và nhất thiết cho mọi người biết rõ ràng là Việt Nam không chấp nhận sự chiếm đóng bằng vũ lực của Trung Quốc như là chuyện đã rồi.
Posted by Việt Anh

Tuyệt mệnh với nền giáo dục việt nam


Tuyệt mệnh với nền giáo dục việt nam


Nguồn:thanhnientudo.com

  

By Nguyễn Duy 

Featured Image: Pixabay



Bây giờ với tôi mọi thứ dường như đã mất đi cơ hội trong cuộc đời mình. Tri thức là điều thiết yếu của cuộc sống con người, nó vận mệnh cho sự phát triển hay suy đồi của một nền đất nước hay một cá nhân riêng. Thế nên đối với tôi, mọi sự thật rối rắm và tôi cảm thấy băn khoăn khi không biết phải lựa chọn điều gì tốt với bản thân mình, mọi việc đều không được tự do như những nền tri thức ngoại quốc mà tôi hay đọc trong sách, internet và trên tivi.

Giáo dục hiện thời dường như đạng tụt hậu không một chút đổi mới mà vẫn thích ràng buộc và tiêu diệt. Giáo dục là thước đo cho sự vượt bậc của con người, nhưng tôi đang sống trong một môi trường hiện nay ở Việt Nam được học, được chơi, được sống…. mọi thứ đều mang tính ganh đua và thích được danh vọng hơn bản thân của mình.

Bằng cấp có phải là sự lựa chọn thiết yếu? Bằng cấp chỉ thể hiện mình chỉ đánh bóng tên tuổi và sự nghiệp mình nhưng quan trọng năng lực của họ đã tốt hay đã đúng như bằng cấp đề ra cho mình chưa? Mọi thứ thật khó để mà quyết định. Hiện nay trên các trang báo, internet tôi cảm thấy dường như nền giáo dục đang ngự trị bởi kẻ ngu dốt hơn là người khôn lanh việc làm họ khiến cho giáo dục thật chậm phát triển chỉ biết nghĩ tới tiền, danh vọng, bằng cấp hơn là khả năng của mình. Nhưng số phận quyết định vậy thì không thể đổi thay gì khi nó đã thấm trong tư tưởng của con người Việt Nam. Kẻ ngu dốt ngự trị bằng lý lẽ của kẻ ngu dốt thì cũng biến con người cũng trở nên ngu dốt và khờ dại.

Mọi thứ đều được kiểm soát không được một cá nhân nào quyết định mở trường tư ra dạy học, mọi thứ đều phải thuộc trong một đảng, một phái chính quyền nhà nước chứ đâu phải một cá nhân không theo đảng, không làm việc cho nhà nước. Chỉ là những thành phần vô lại, bóc lột sức lao động của người dân.

Họ lập trường tư để kiếm thêm lợi nhuận hơn là tích cực dạy học, họ chiêu dụ mọi mặt về hình thức quảng cáo cũng như lời thân ngọt, nghe thấy thích thích mà khi đã học rồi là cảm thấy bực tức khi học phí tăng cao, kiến thức rời rạc, quản lý ít nghiêm nghặt, tổ chức ăn chơi nhiều… rồi đến khi họ bừng tỉnh, mọi thứ xoay quanh họ như là sự diễu cợt trên giọt mồ hôi vất vã của người dân, con cái họ thích chơi hơn thích học. Rồi những ai đã thức tỉnh, họ quyết định rút hồ sơ xin chuyển một ngôi trường với môi trường thích hợp cho tương lai của mình, thì lại bị chiêu trò dụ dùng nhiều lý lẽ để thay đổi tư tưởng của mình. Không biết đó có phải là lương tâm nghề giáo không?

Giáo dục việt nam có quá nhiều bằng cấp. Cứ đem bằng cấp ra so sánh, sợ mình mang nhục hay thua người khác đó là cái tính háo danh mà giáo dục việt nam đào tạo. Còn năng lực thì như đồ thừa thãi vứt bỏ trong thùng rác thì làm sao mà phát triển được, chỉ cầm bằng cấp chiếu cố hay khoe mẻ cho được nêu danh, mang tiếng tâm cho mình nhưng chắc cũng phải né tránh khi họ thể hiện năng lực cho quần chúng! Giáo dục đang đè bẹp nhân tài, học để lao động thì nhiều còn nghiên cứu, phục vụ cho đất nước thì không có, chỉ là nhân tài theo kiểu đã tốt nghiệp loại xuất sắc tư tưởng cộng sản để ngự trị trong dân và lộng hành quyền một cách phi pháp bóc lột một cách thâm độc đến thế.

Càng sống trong xã hội Việt Nam bây giờ, thì cũng như con chim nằm trong lồng luôn mơ đến một ngày được tự do, tự tại. Con người trong xã hội Việt Nam đang bắt đầu mất nhân cách hay đúng hơn là bảo vệ quyền tự do của mình. Một lời ăn tiếng nói ảnh hưởng đến danh dự hay lòng tự tôn của họ thì cũng một sống một còn. Cái quyền con người nó bị xiềng xích đến như thế càng xiềng xích càng muốn được giải thoát. Nhưng sự sợ hãi là bóng tối bao trùm cảm thế giới định đoạt cho những cái ác lộng hành và tàn bạo.

Kiềm hãm tri thức, nhồi nhét tư tưởng cộng sản, mọi việc làm đều thông qua kiểm duyệt, mọi quyết định đều có bè có phái. Chạy chọt tiền bạc để được đề cao, để được một chỗ tốt cho mình mà không nghĩ đến lương tâm và mọi người khác hay sao! Giáo dục đã không còn đúng như khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Nữa mà trở thành một sự loạn lạc trong xã hội và tước đoạt nhân cách của quyền con người. Học sinh vẫn đang từng ngày uống dòng sữa từ tư tưởng của đảng, tri thức vẫn là sự chọn lọc chứ không được rộng mở thật khó để con người phát triển.

“Sự phát triển cá nhân để trở thành một con người đầy đủ phải là mục tiêu chính của tất cả mọi cố gắng của ta hiện thời. Văn minh loài người chỉ xây dựng được một cách vững vàng trên những con người ấy thôi.” – Alexis Carrel