Bài đăng nổi bật

Nhập khẩu vũ khí của Việt Nam giảm xuống cực thấp bất chấp căng thẳng trong khu vực

  Nhập khẩu vũ khí của Việt Nam giảm xuống cực thấp bất chấp căng thẳng trong khu vực 14/03/2024 Reuters Triển lãm vũ khí ở Hà Nội, Việt Nam...

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Trăng Huyết(3)

Thượng nghị sĩ làu bàu cáu kỉnh:
- Bố có thể nằm trong giường dưỡng sốt vài ngày khi mình về lại Sài Gòn. Không có vấn đề chúng ta lãng phí ngày chót này.
Đưa mu bàn tay dụi mắt, ông nóng nảy đứng phắt dậy. Trong lúc đó, hai người Mọi đi dò dấu thú khi họ ngồi nghỉ, lúc này lật đật chạy trở về chỗ đất trống. Họ bắt đầu vừa líu lo nói với Devraux vừa đưa tay chỉ ngược lại hướng rừng cả hai mới từ trong đó chạy ra.
Trao đổi xong với người Mọi, Devraux nói:
- Chúng nó định vị được một bầy min và nghé đang ăn cỏ cách đây tám trăm thước. Lũ trâu rừng ấy có thể không xa lắm. Có lẽ chúng đang tìm các lùm cây im mát phía bờ sông bên này để tránh cái nóng. Chúng ta phải đi cẩn thận. Nếu trong khi tới gần, ta làm chúng giật mình thì sẽ không còn có loại thú vật nguy hiểm đó trong khu rừng này nữa.
- Xong ngay, tôi sẵn sàng rồi.
Thượng nghị sĩ nói, cầm súng và ưỡn thẳng người. Khi Chuck theo Devraux bước vào vùng cây cối rậm rạp, Nathaniel đi chậm lại, rút chai dẹt ra thêm lần nữa, tu một hơi dài. Rồi ông thận trọng đi theo ở cuối hàng, sau mấy người Mọi dò dấu thú.
Bên khúc sông hẹp chạy dài một rừng tre dày đặc với những thân tre cao vút, kêu răng rắc và đưa kẽo kẹt trong gió nhẹ khi đoàn người di chuyển hàng một, chầm chậm và thận trọng, dưới các tán lá rậm rạp phủ kín đầu trong cảnh tranh tối tranh sáng. Cứ đôi ba bước họ lại dừng chân, mắt nhìn chằm chặp vào vùng bóng tối phía trước. Khi tới một khoảng trống khác, Devraux dừng lại, đưa tay chỉ. Cách chừng hai trăm thước, họ thấy rõ một bầy trâu rừng với lũ nghé đang nhảy nhót, nô đùa bên mấy con trâu bố mẹ của chúng. Nathaniel thì thầm, giọng bàng hoàng:
- Bọn Mọi thiệt là lầm rồi! Có một con min đầu đàn, cổ bướu, già và to tướng ở ngay chính giữa các thê thiếp và con cái của hắn. Hắn là của tôi!
Không chờ người khác, ông lao mình từ trên bờ xuống nước, trượt chân rồi trườn người gượng dậy, lũi tới, bất kể rễ cây chĩa ra tua tủa và sỏi đá lởm chởm. Ông lội ngang sông, nhoài người lên bờ bên kia và chuồi mình vô đám cỏ thấp lè tè trên mép đồng cỏ. Mặt tỉnh bơ, Devraux ngó Chuck Sherman. Hắn nói cộc lốc:
- Gió mạnh từ chỗ này thổi tới. Rồi cậu sẽ thấy!
Đến khi cả đoàn sang tới bờ bên kia, thượng nghị sĩ đã ở đằng trước họ năm chục thước. Ông di động thiếu cảnh giác, ngực đè lên cỏ, chuẩn bị liều lĩnh đứng lên bắn từ khoảng cách hai trăm thước. Nhưng từ sau lưng đoàn người đi săn, cơn gió xoáy thổi ngược ra đằng trước. Con trâu khổng lồ thình lình đưa mõm lên về phía họ đánh hơi. Chỉ một chớp mắt, cả bầy trâu bỏ chạy về hướng cây cối rậm rạp, tìm chỗ núp.
Giận điên người, Nathaniel Sherman văng tiếng chửi thề, vừa lấy thế vừa bóp cò. Kết quả phát súng thứ nhất chỉ khiến đàn vẹt trong các bụi cây sau lưng ông thét lên thất thanh, vỗ cánh vọt lên trời. Lũ trâu tiếp tục chạy, không chút hề hấn. Người Mỹ lại lớn tiếng chửi tục rồi trụ hai chân cứng hơn, ông bắn nòng thứ hai — vẫn chẳng có con trâu nào lảo đảo. Thế nhưng khi con trai và Devraux tới bên ông, Nathaniel vẫn nheo mắt nhìn qua lỗ nhắm của khẩu súng đang đưa cao, ngắm bầy trâu đang chạy tán loạn vào rừng. Ông thì thầm xuống giọng:
- Con có tin không Chuck, phát thứ hai bố bắn trúng hắn.
Không đợi Chuck, ông sãi chân bước theo hướng bầy thú vừa bỏ chạy. Ra tới giữa bãi cỏ ông la lớn rồi quì xuống. Khi ông xoay người về phía họ, con trai ông và Jacques Devraux thấy các ngón tay ông lấp lánh máu. Nathaniel đứng lên, thở dồn dập:
- Bố đã nói với con là bố bắn trúng hắn! Hắn ở xa tới hai trăm thước và đang bỏ chạy, thế mà bố vẫn bắn trúng hắn! Lẹ lên Chuck. Chúng ta đi thu thập hắn.
Trên bãi cỏ, không khí lung linh chập chờn theo hơi nóng ban trưa. Devraux đặt bàn tay dè dặt lên vai người Mỹ:
- Vết máu nhạt. Con min không bị thương nặng. Nếu tiếp tục đi, ông sẽ khặc khừ, chịu không nổi cái nóng cực độ lúc mặt trời đứng bóng. Tốt nhất ta quay về trại, chờ khi mặt trời dịu, ta đi săn tiếp.
- Nếu hôm nay mưa nữa ta trễ giờ săn mất!
Devraux vừa nói vừa nhún vai:
- Vào giờ này người sung sức nhất đuổi theo con thú ấy còn bị nguy hiểm. Huống hồ với điều kiện hiện nay của ông... đó chắc chắn là chuyện điên khùng.
Mồ hôi tuôn thành dòng trên khuôn mặt thượng nghị sĩ. Mắt ông lờ đờ vì uống quá nhiều ki-ninh. Nhưng ông vẫn nằng nặc:
- Tôi quyết tâm lùng và diệt con vật đó, Jacques ạ. Tôi đã bắn trúng hắn, tôi sắp giết được hắn.
Người Pháp thản nhiên đáp lại, với thái độ dứt khoát:
- Thế thì kể từ lúc này, tôi hết chịu trách nhiệm về phần đi săn còn lại hôm nay.
Chỉa ngón tay cái vô ngực mình, Nathaniel Sherman cao giọng sôi máu:
- Vậy cũng tốt thôi, Jacques. Tới lượt tôi. Tôi sẽ tự mình chịu cái trách nhiệm khốn kiếp này.
Nhìn xuống vết máu dây lờ mờ trên cỏ, ông giận dữ sải chân vô rừng. Chuck theo cha bén gót. Sau một thoáng lưỡng lự Jacques Devraux với mấy người Mọi dò dấu thú cũng đi theo, giữ cách một quãng.
Trong nửa giờ, hai cha con lần theo những vệt bẫn có màu đo đỏ. Tới sau cùng, họ thấy chúng dần dần biến mất vào một cái trảng có những lùm tre gai dày đặc bọc kín.
- Chuck này, bố đoan chắc chúng ta đang tới khá gần hắn. Hắn núp trong một xó xỉnh nào đó quanh đây thôi. Và đang liếm vết thương của hắn.
Nathaniel lột mũ xuống. Trong khi lau khuôn mặt ròng ròng mồ hôi, ông bắt gặp có cái gì đó động đậy trong đám cỏ mọc lúp xúp lộn xộn. Chỉ tay vào lùm tre gai, ông hỏi con bằng giọng thì thào sôi nổi:
- Chuck, con có thấy cái đó không? Bố nghĩ mình đã tìm ra hắn.
Dù lùm tre gai dày đặc không thể nào nhìn rõ, Chuck vẫn thấy có một mảng bóng tối màu nâu đen nhúc nhích, không lầm lẫn vào đâu được. Cậu lập tức nâng súng lên.
- Khoan. Hắn của bố!
Bằng cử chỉ quyết liệt, ông hất nòng súng của con qua một bên. Mắt Nathaniel long lanh, hơi thở phì phò, cánh mũi phập phồng khi ông nâng súng lên, bắn thật lẹ vào mảng bóng tối đó, bắn liên tiếp cả hai nòng.
Vang lên tiếng bùm bụp của đầu đạn trúng mục tiêu. Rồi hai cha con nghe có tiếng thân xác nặng nề lăn lộn điên cuồng giữa lùm tre gai kín mít như bủa lưới. Sau vài giây, chấm dứùt mọi động đậy, cái trảng im lìm trở lại. Thượng nghị sĩ vừa toét miệng cười với con trai vừa nạp thêm hai viên đạn vào ổ súng:
- Chuck này, có phải bố đã nhiều lần nói với con rằng có quyết tâm là có tất cả, đúng không? Đi với bố vô ngó hắn!
Chuck lưỡng lự trong khi cha cậu bước loạng choạng về phía lùm tre gai dày đặc. Ngay lúc ấy, Devraux và mấy người Mọi vừa tới trảng. Khi người Pháp thấy hoạt cảnh đang diễn ra, hắn giận dữ thét lớn, quát thượng nghị sĩ đứng lại. Nhưng nếu Nathaniel có nghe ông cũng không thèm để vào tai. Chuck kêu lên khi cha bước tới một kẽ hở giữa lùm tre gai:
- Bố ơi! Chờ thêm chút nữa có phải tốt hơn không?
Thượng nghị sĩ dậm chân, ngoái lui:
- Này con, chính ta là người bắn con trâu đó. Con sợ thì cứ đứng đó chờ với với bọn Mọi.
Rồi không đợi nghe trả lời, ông bước lẹ vô lùm tre gai. Nhức nhối vì câu nói của cha, Chuck vọt qua chỗ đất trống, xông tới.
Bên trong lùm cây mịt mùng, Nathaniel sửng sốt thấy mình lập tức mặt đối mặt với một con trâu rừng đen thui và khổng lồ đang đứng thù lù một đống. Tính từ mặt đất lên vai, trâu cao hơn thước tám. Con thú mắt xanh, đồ sộ, đứng vượt quá đầu ông, đang lắc lư trên bốn chân. Chung quanh trâu, một vùng cỏ mọc lè tè vấy đầy máu, sát rạt và tan nát vì trâu lăn lộn. Vừa thấy Nathaniel, con vật hạ cặp sừng nhọn hoắt xuống. Một cặp sừng dài tới chín tấc, đang trong giai đoạn phát triển sung mãn nhất của chúng. Dù khi đặt chân vào lùm cây, thượng nghị sĩ đã kê sẵn súng trên vai trong tư thế sẵn sàng nhả đạn nhưng ông chưa kịp bóp cò trâu đã chồm lên người ông.
Cục xương u nằm giữa hai sừng trâu húc thật mạnh. Nathaniel mất thở. Ông gập người trên chiếc cổ trâu to tướng, úc núc các bắp thịt săn vồng như cái bướu. Ông treo thân trên đó một giây trước khi trượt người qua một bên. Trong khi người ông lạng xuống đất, con trâu rừng húc liên tiếp vào thân xác ông, hất người ông văng hết bên này qua bên kia cho tới khi trâu xóc được chiếc sừng dài vô mình ông.
Sừng xóc ngay chỗ nách, từ đó thọc lên móc thẳng vào khớp xương đòn gánh nơi bả vai trái và chầm chậm xoay thân mình Nathanel thành vị trí thẳng đứng, đeo dọc sừng sâu. Bấm hai chân sau, con trâu rừng khổng lồ rống lớn, lồng lên, câu bổng ông lên quá mặt đất, day qua day lại nhiều lần như lắc lắc một hình nộm làm bằng giẻ rách.
Khi Chuck chạy vào lùm tre gai cậu thấy cha như thể đang khom mình trên cái đầu cúi thấp của trâu trong tư thế hết sức bình lặng. Cảm giác được sự nguy hiểm mới, con vật điên cuồng quẩy mạnh sừng cho rớt cái gánh nặng móc trên đó. Trong hôn mê, thượng nghị sĩ thình lình bị hất tung lên từ giữa hai sừng trâu, nơi ông vừa nằm không nhúc nhích như nằm giữa hai gọng ná.
Chuck bình tĩnh nâng súng. Cậu bóp cò đúng lúc con trâu phóng tới phía cậu. Cậu đã nhắm cẩn thận ngay chính giữa hai mắt trâu nhưng vì nó chồm tới nên đường bắn bị lệch. Phát đạn thứ nhất chỉ làm xước lớp da bên ngoài cổ trâu. Trong khoảng cách một tầm tay, trâu cất đầu lên lao cặp sừng đẫm máu người cha vào thân thể người con khi Chuck bắn nòng súng thứ hai. Viên đạn bay đúng vào ngực trâu, làm nó bị thương trí mạng nhưng không chận nổi đà xung kích dữ dội đang lao tới và không gạt nổi hai vành trăng lưỡi liềm bằng xương thọc vào thân thể cậu với tất cả sức lực của cổ trâu mạnh bạo.
Chuck ngã xuống, bụng bị đâm thủng. Trong khi cậu quằn quại đau đớn dưới đất, con trâu húc cậu thêm cú nữa. Trong cú húc thứ hai, một chiếc sừng trâu thọc vô phổi Chuck nơi vùng cao phía bên trái lồng ngực. Mũi sừng nhọn hoắt đâm thấu trái tim cậu. Trong khi con vật rống lên, ngúc ngắc đầu trên cơ thể Chuck, cậu thấy sát ngay trước mặt mình những sợi lông xám quanh cái mõm đen sì và rộng.
Chuck cảm thấy cái nóng trong hơi thở đẫm máu và tanh tưởi của trâu. Từ bên dưới thân trâu, cậu có thể thấy da bụng trâu tái nhợt kỳ dị và màu hồng hồng giữa hai chân sau của trâu đang dang rộng. Và thấy bìu dái trâu với bọng dái đen sẩm săn lại, cậu nghĩ, đối với một con vật khổng lồ và có sức tàn sát như thế này, thì cái bọng ấy có vẻ nhỏ quá, không thích hợp chút nào, trông như thể một món đồ chơi.
Rồi Chuck nghe xa xa có tiếng nổ của một khẩu súng khác và cảm giác sức va chạm của những viên đạn rắn đặc ấy làm thân trâu rùng rùng. Nhưng ngay lúc đó, cái thân hình đen đủi to tướng của trâu sụm xuống, đè lên người cậu: trâu đã không còn sự sống sau phát súng thứ hai của cậu.
Kỳ lạ thay, cảm giác cuối cùng của cuộc đời Chuck không phải là cái đau đớn của những vết thương khủng khiếp do con min ấy gây ra. Trong khoảnh khắc sau chót, vết xước nóng bừng trên bắp chân trái, chỗ con bọ cạp đốt cậu tuần trước, hình như đang rực cháy một ngọn lửa mới mẻ và nhức buốt. Cậu cố nhấc bàn tay lên để sờ nó để xoa nó, nhưng bỗng dưng một trạng thái vô cùng mệt mỏi nhận chìm cậu xuống. Và bàn tay cậu chẳng bao giờ còn có thể với tới nơi nó định tới.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:45 AM
TẬP I - Phần Thứ Hai - Hận Thù Của Triệu Cu-Li - 1929-1930
TẬP I - Phần II - 1 -
Những nền móng của kỷ nguyên thực dân — mà trong suốt thời gian đó các nước da trắng châu Âu thống trị những vùng đất bao la ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh — lần đầu tiên bị xói mòn chí tử trong một thập niên đầy náo động của thế kỷ hai mươi. Những cuộc cách mạng, ban đầu của Trung Hoa Quốc Dân Đảng lật đổ chế độ quân chủ Mãn Thanh năm 1911 để thiết lập nền cộng hòa dân quốc, rồi sau đó, của Đảng Cộng Sản Nga lật đổ Sa Hoàng năm 1917 mở đầu chế độ Cộng Sản toàn trị tại Liên bang Sô Viết; cuộc Thế giới Đại chiến 1914-1918 vừa làm các chính quyền ở châu Âu bị suy yếu trầm trọng vừa khiến dân chúng vùng thuộc địa nhận ra rằng các chủ nhân ông da trắng có vẻ bất khả chiến bại ấy cũng có thể tự hủy hoại tột độ một cách điên rồ.
Tình trạng bị xói mòn của hệ thống thực dân lại tăng nhanh hơn nữa do sự thành lập Cộng Sản Quốc Tế vào năm 1919. Tổ chức này được sử dụng cách riêng cho việc đánh bại chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Vào cuối thập niên 1920, các phái viên của Cộng Sản Quốc Tế Đệ Tam bắt đầu công tác bí mật tại những lãnh thổ thuộc địa của các nước tư bản đang dàn trải bao la và mong manh, để khai thác những bất mãn của nhân dân bản xứ.
Trên khắp lãnh thổ An Nam, bất mãn chính trị càng sâu sắc thêm sau ngày Hoàng đế Khải Định băng hà quá sớm vào tháng 11.1925. Ông từ trần lúc chỉ mới 43 tuổi; người Pháp nắm lấy cơ hội đó để gia tăng tột độ ảnh hưởng của họ. Người Pháp nhất quyết đòi buộc ngôi vua phải dành cho con trai của ông là Bảo Đại, lúc đó mới 12 tuổi, đang theo học ở Paris. Họ đưa tự quân thiếu niên ấy về nước để tiếp nhận ngôi vua, sau đó, lại sang Pháp tiếp tục sống ở Paris, để được dạy bảo thêm bảy năm nữa. Trong thời gian đó, tuy triều đình có quan Phụ chính nhưng Khâm sứ Pháp tại Huế đích thân tiếm đoạt những gì còn sót của vương quyền.
Khi còn sống, Khải Định không để lại được gì đáng kể cho quốc dân và hậu thế ngoài việc xây một lăng tẩm đồ sộ theo kiểu pha tạp Á-Âu. Ông chỉ là một quốc chủ bù nhìn và sang triều Bảo Đại cũng chẳng khác chút nào; hai vị vua ấy chỉ là công chức ăn lương của Pháp. Thực tế, kể từ ngày Paul Bert giữ chức Toàn quyền Đông Dương, nhà vua chỉ còn là người ký sắc dụ cho người Pháp thực hiện mọi ý muốn của họ. Trong khi đó, theo những điều khoản của hòa ước Patenôtre 1884 giữa Pháp và nhà Nguyễn, chỉ có Nam kỳ nằm dưới quyền thống trị trực tiếp của Pháp, còn Bắc kỳ và Trung kỳ theo chế độ Pháp bảo hộ, thuộc quyền của nam triều.
Tại Nam kỳ, việc cai trị làng xã do Hội đồng hương chính. Các thôn xã họp thành tổng; nhiều tổng họp thành tỉnh, do người Pháp làm tỉnh trưởng. Tuy thế, một số tổng quan trọng họp thành huyện với huyện quan là người Pháp, hoặc đôi khi người Việt. Tại Trung kỳ và Nam kỳ, tuy vẫn giữ hệ thống cũ với các quan tri huyện tri phủ và quan đầu tỉnh là tuần phủ hay tổng đốc người Việt nhưng mỗi tỉnh có một viên công sứ Pháp, là người hầu như nắm toàn quyền quyết định, kể cả binh quyền.
Người Pháp đặt ra các thứ thuế đinh (đánh trên mỗi đàn ông), điền, thổ trạch, muối, thuốc phiện, xuất nhập cảng, v.v. Họ trực tiêáp khai thác hệ thống ngân hàng, các công ti rượu, thuốc phiện, xi-măng, gỗ, đồn điền cao su, v.v. Năm 1890, tổng số diện tích đất Pháp khai thác trên toàn cõi Đông Dương là 11.390 mẫu tây, sang tới năm 1939, con số này lên tới một triệu mẫu, riêng ở Nam kỳ là 610.000 mẫu. Người dân quê An Nam hiền lành và cần cù không chịu đựng nổi cuộc sống cơ cực tại nông thôn, một cổ hai tròng Pháp và quan lại nam triều cùng cường hào ác bá thôn xã. Họ lâm vào hoàn cảnh dễ bị dụ dỗ hoặc cưỡng bách đi làm phu-phen hay cu-li ở các đồn điền; thường có ngày đi chẳng có ngày về, nhất là những người làm cu-li cho các đồn điền cao su đất đỏ vùng đông nam bộ, mỏ than Hòn-gay, thường bị hành hạ, đánh đập hoặc chịu ma thiêng nước độc, chết vô số. Ngược lại, so sánh với các vùng đất thuộc địa khác của Pháp trên thế giới, Đông Dương là chốn béo bở nhất, được Pháp khai thác triệt để và thu lợi ngon lành nhất.
Thảm trạng đó khích động tình cảm chống Pháp, đồng thời được cổ vũ bởi những thành công của Tôn Dật Tiên và Mao Trạch Đông bên nước Trung Hoa láng giềng, những người An Nam theo chủ nghĩa dân tộc và những người An Nam theo chủ nghĩa cộng sản bắt đầu tổ chức hàng ngũ mình chặt chẽ hơn. Cuộc Đại Khủng hoảng Kinh tế năm 1929 với việc lúa gạo bị sụt giá thê thảm làm cuộc sống gian khổ thêm, thậm chí nạn đói lan tràn tại nhiều vùng đất thuộc lãnh thổ Đông Dương, khiến tâm trạng nổi loạn ngày càng bén nhạy và sôi động hơn.
Hậu quả của những tác động mạnh mẽ và hỗ tương đó là các phong trào chống Pháp —trước đây vốn là phạm vi dành riêng cho giới sĩ phu An Nam thừa quyết tâm nhưng thiếu tổ chức chặt chẽ, được đánh dấu chấm dứt vào thời điểm 1926 với phong trào đòi ân xá cho Phan Bội Châu, và sự từ trần của Phan Châu Trinh tại Sài Gòn — nay vào lúc kết thúc thập niên 1920 này, bắt đầu khuấy động các tầng lớp trí thức trung lưu trong công sở, trường học và các tập thể quần chúng đang lao động cực nhọc trên ruộng lúa, trong hầm mỏ và đồn điền cao su.
Ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc từ tay giới nho sĩ cựu học trong các phong trào Cần vương, Văn thân, Duy tân, Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Quang Phục, v.v. khép lại với sự kiện Phạm Hồng Thái của Tâm Tâm Xã ám sát hụt Toàn quyền Merlin tại Quảng Châu năm 1924, từ đó mở ra một giai đoạn mới. Ở Paris có Đảng Việt Nam Độc Lập do Nguyễn Thế Truyền, Phan văn Trường tổ chức trong giới sinh viên và anh em làm tàu biển. Hà Nội và Huế có Đảng Phục Việt, tiền thân của Tân Việt Cách Mạng Đảng với Lê Huân, Nguyễn Xuân Chữ, Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh... Bắc kỳ có Nam Đồng Thư Xã với Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học, hạt nhân trổ ra VN Quốc Dân Đảng, như một hành động cuối cùng chống Pháp bằng bạo động. Nam kỳ có Hội Kín Nguyễn An Ninh. Rồi ba chi phái cộng sản Quốc Tế Đệ Tam: tháng 6.1929, Đông Dương Cộng Sản Đảng; tháng 10, VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội biến thành An Nam Cộng Sản Đảng; và qua tháng 1.1930, một số đảng viên Tân Việt tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.
- 1 -
Như mọi năm, đêm nào gió mùa bắc nam điên cuồng cũng tạt mưa như trút nước xuống những hàng cây cao su san sát nhau, mọc lên từ đất rừng nâu đỏ ở đồn điền Vị An, cách Sài Gòn một trăm cây số về hướng bắc. Trong bóng tối nửa khuya mịt mùng, những hàng cây rậm lá ấy đứng thẳng, im lìm và ướt sủng dưới trời mưa xối xả. Trên mỗi thân cây cao su, cách mặt đất chưa tới một thước, có móc một chiếc chén thiếc, cỡ khất thực, dùng để hứng thứ mủ trắng như sữa chầm chậm ứa ra, chảy xuống theo đường lằn chéo rạch sẵn.
Trên nền đất trong các gian lều vách bằng cót mỏng, mái dột nát, lợp lá cọ, cất thành từng dãy nhà lán dài song song nhau và nằm khuất trong đồn điền cao su Vị An rộng mênh mông, năm trăm cu-li An Nam — mà công việc chính và bất tận của họ là rạch rãnh trên thân cây cao su, cào rãnh và vét sạch mủ trong những chén thiếc nhỏ nhoi ấy, dưới ánh sáng xam xám từ lúc trời chưa rạng sáng — đang nằm co quắp hoặc ngồi co ro, cố nhắm mắt ngủ chập chờn giữa tiếng mưa sầm sập.
Đối với trí óc mụ mẫm vì lao khổ và nhiều mê tín của phu cạo mủ, chính những hàng cây cao su có vẻ xa lạ, dài dằng dặc, đứng tiếp liền nhau theo một khoảng cách đều đặn như các đoàn quân ma di hành qua khu rừng quí giá và hoang sơ của tổ tiên, đã kích động cho cơn bão hằng đêm ập tới, để đẩy những gian nan nghiệt ngã trong cuộc đời vùi dập của họ lên tới tột điểm khổ nạn.
Tại Làng Số Ba, khu vực qui định nơi ở của năm trăm cu-li, họ bị dồn chật ních trong từng nhà lán tới độ trong bọn họ có nhiều người phải ngồi ngủ gà ngủ gật. Ngô văn Đồng và Học, em trai cậu, nằm rúc người vào nhau trong bóng tối của nhà lán. Nước mưa dột thành dòng qua mái lá lợp không đủ độ dày, làm ướt sủng bộ quần áo sờn rách trên mình hai anh em. Gần bên chúng, một cu-li lớn tuổi nằm trên nền đất, chân co sát bụng, hai tay ôm chặt ngực, đang chịu cơn sốt rét, người run lẩy bẩy và miệng rên từng chặp theo tiếng răng đánh lập cập.
Dù chưa quá tuổi thiếu niên, vẻ ngoài của hai cậu bé An Nam đã trải qua những đổi thay khốc liệt trong bốn năm vừa qua, kể từ buổi chiều Joseph Sherman và Paul Devraux công kênh hai anh em chạy vào lều bạt nhà bếp của Ngô văn Lộc, cha của chúng và là người “bồi” trại săn của Jacques Devraux. Cơ thể của chúng cực kỳ thiếu dinh dưỡng, xương thịt còi cọc, da lốm đốm ghẻ lở. Mười tám tháng làm việc không ngừng giữa những lối đi đầy bóng lá âm u và bềnh bồng mầm sốt rét trong đồn điền cao su làm khuôn mặt hai anh em choắt lại, phờ phạc. Ban ngày, hai con mắt lõm và lờ đờ của chúng phản ánh sự khốn khổ bên trong con người, ngoài sức tưởng tượng so với hai cậu bé hồn nhiên cười nắc nẻ hồi năm 1925 trước đây.
Nhân lúc gió mưa tạm ngừng cơn gào thét, nhà lán tương đối im ắng, Học níu lấy Đồng, kề miệng sát bên tai anh, nói thật nhỏ, giọng thì thầm sợ hãi:
- Hình như anh ấy không còn rên. Anh có nghĩ là chết rồi không?
Trong bóng tối gần như đen đặc Đồng không thể nhìn rõ cử động nào của người phu cạo mủ ấy. Suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua, anh ta run rùng rùng, vừa rên vừa than thở, nhưng lúc này từ chỗ anh ta nằm không phát ra âm thanh nào. Nhận thấy mình mẩy Học đang bắt đầu co giật, Đồng ép sát thân thể trơ xương và cao hơn người An Nam bình thường của mình vô thật sát bụng em rồi vòng hai tay quàng chặt lưng em:
- Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa. Chắc anh ấy ngủ say. Anh em mình cũng rán ngủ đôi chút!
Học cố nhắm mắt nhưng dạ dày lép kẹp và cồn cào của cậu lại nổi cơn sôi ruột quen thuộc khiến cậu không thể nào làm theo lời anh. Đã sáu giờ kể từ lúc hai anh em chia nhau suất cơm còm cỏi được nấu bằng gạo hẩm trong chiếc ca sắt móp méo đặt trên bếp lửa bên ngoài nhà lán như thường lệ. Giếng quá sâu, khó đào vì nhiều đá ngầm, nước rỉ không ngang mặt gàu lại đỏ ngầu. Hết thảy phu cao su đều dùng nước múc từ những con suối mằn mặn, đầy muỗi sốt rét, chảy lờ đờ qua đồn điền, để nấu ăn hoặc đun thật sôi mà uống. Hễ lần nào thấy mình hâm hấp nóng, Học tự hỏi phải chăng mình bắt đầu nhiễm sốt rét ác tính.
Không muốn Học sợ quá mất ngủ, từ đằng sau em, Đồng thầm lặng trườn mình trong bóng tối, đưa tay huơ, cho tới khi bàn tay quờ quạng của cậu chạm trúng mặt người bệnh. Da thịt ẩm ướt ấy lạnh ngắt tự bao giờ, nhờn nhợt nước mưa trộn với mồ hôi của cơn sốt cực điểm và chí tử. Bàn tay đang rờ rẩm của Đồng bỗng tự động rụt về, như có ý báo cho cậu biết rằng lần này hai anh em không thể tránh khỏi công việc đáng sợ là phải chôn cất xác chết. Trong thời gian cả hai ở đồn điền Vị An, tại Làng Số Ba này đã có tới hơn một trăm cu-li qua đời vì sốt rét, đói hoặc tự tử — nhưng chưa có người nào chết trong khi nằm ngủ kế bên chúng.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:47 AM
Đột nhiên Đồng tự hỏi biết đâu sáng sớm ngày mai, chuyến đi vào rừng ngắn ngủi với thây ma này lại cho hai anh em thêm một cơ hội bỏ trốn. Nhưng lập tức cậu gạt hẳn ý nghĩ đó. Trước đây, Đồng và Học đã cố trốn hai lần và lần nào cũng bị đám người Mọi chất phác và quen thuộc địa hình, săn đuổi tới cùng. Túm được hai anh em, họ lột hết quần áo, trói quặt hai tay ra sau, tròng vào cổ mỗi đứa một sợi thừng bện thật chắc bằng dây rừng, rồi điệu về đồn điền. Mỗi lần bắt lại được một cu-li bỏ trốn, mấy người Mọi có tròng mắt trợn ngược và ưa la hét đó được gã Pháp quản đốc đồn điền thưởng công năm đồng bạc trắng.
Chiều đến, trước sự chứng kiến của toàn thể cu-li trong đồn điền, Đồng và Học bị một tốp “cai” dùng roi mây to tướng quất mạnh vào gan bàn chân, mỗi bên năm chục cái. Dù hai bàn chân sưng vù, chưa khô máu, ngay sáng hôm sau hai anh em vẫn phải làm việc, phải đạt chỉ tiêu chích mủ và cạo mủ. Chân nhảy cà nhắc từ cây cao su này tới cây cao su nọ, mãi hơn một tháng sau mới đi đứng bình thường như cũ. Sau đó, cố trốn lần thứ hai. Lại bị bắt, bị đánh đập lần nữa. Lần này tàn tệ hơn lần trước. Thậm chí còn bị tống vô xà lim nền đá trong đồn binh Ngả Ba Ông Đồn. Mỗi đứa bị nhốt riêng một buồng. Buồng này cách xa buồng kia trong bóng tối ngửa bàn tay không thấy. Lần đó, cả hai chịu mười bốn ngày biệt giam, chân đeo cùm sắt rất nặng, chỉ được nhai cơm khô. Suốt hai tuần lễ không một lần thấy ánh mặt trời.
- Anh Đồng này, liệu anh em mình có phải đi vào rừng chôn xác anh ấy không?
Giọng Học đứt quãng qua hai hàm răng cắn chặt, hơi thở nóng hổi bên vành tai Đồng, như thể đọc được ý nghĩ của anh. Người Học càng lúc càng rung mạnh làm Đồng e ngại có lẽ mình cũng bắt đầu lây cơn sốt.
- Đừng lo. Em còn nhỏ ai bắt đào huyệt. Rán ngủ một chút.
Cách nhà lán khoảng tám trăm thước, trong biệt thự dành cho quản đốc đồn điền, bản nhạc “Muskrat Ramble — Cuộc dạo chơi của chuột xạ”, do Louis Armstrong và Kid Ory hoà tấu, khi lào xào khi rít lên ken két như đang cố chống chỏi, đua chen với tiếng gầm thét của cơn mưa đầu mùa gió chướng để âm thanh của nó lọt vào tai người thưởng thức. Trên cửa ra vào và cửa sổ treo màn sa tanh cắt may thật khéo, vừa vặn khuôn cửa, lúc nào cũng buông kín mít như ngăn không để lũ muỗi sốt rét bay tới gần thân xác vạm vỡ và nặng chình chịch của Claude Duclos, một dân đảo Corse trạc tuổi bốn mươi.
Duclos đang nửa nằm nửa ngồi trong ghế mây dưới hơi gió mát rượi của quạt máy, tay mặt cầm ly whisky pha sô-đa ướp lạnh. Hắn lắng tai nghe nhạc jazz với vẻ mặt trầm ngâm, suy tính. Khi hết dĩa nhạc, hắn nhỏm người lên nốc cạn ly, không chừa một giọt, rồi gõ cành cạch chiếc ly không lên mặt bàn thấp có lót kính, kê bên cạnh.
Trong khi chờ hiệu lệnh ấy được đáp ứng, Duclos đứng dậy đi lờ quờ tới chiếc máy hát quay tay đặt trong cái kệ bằng gỗ sồi, trên đầu chạm trổ mấy cành nho, kê nơi góc phòng. Hắn nhấc cần mạ kền lên. Tay hơi lóng cóng, hắn thay cây kim mòn bằng một cây kim thép khác đã được cậu bồi mài thật sắc, đựng trong hộp thiếc nhỏ.
Khi Duclos bắt đầu cho máy hát chạy trở lại, cửa phòng mở ra, màn vén qua một bên và một thiếu nữ An Nam rất trẻ đi vào. Hắn xoay người lơ mơ ngắm. Cô gái bước tới bàn, cầm chiếc ly rỗng lên rồi đi ra ngay, không đưa mắt ngó hoặc liếc Duclos. Trên sàn nhà bóng lưỡng bằng gỗ thông, bàn chân trần của cô gái không gây một tiếng động, với bước đi uyển chuyển, đều đặn và nhịp nhàng của một người nhà quê quen gánh nước. Cô mặc kiểu y phục các “con gái” hầu hạ trong nhà người Pháp đều mặc y hệt nhau: váy dài màu đen, yếm trắng có hai sợi dây cột ra đằng sau, để lộ hoàn toàn hai vai, hai cánh tay và nguyên chiếc lưng trần trắng trẻo. Trên mái tóc đen tuyền, cô gắn một rẻo vải nhỏ cũng màu trắng. Người Duclos hơi lảo đảo, miệng ậm ừ chõi nhịp với âm thanh rổn rảng của dĩa nhạc. Hắn chờ tới khi cánh cửa đóng lại thật êm sau lưng cô gái mới loạng quạng lần về ghế ngồi.
Trong nhà bếp, “con gái” của Duclos bình thản pha thêm cho hắn một ly rượu dù đã thấy hắn hai chân đứng không vững. Vừa rồi, cử chỉ gõ mạnh ly trên bàn của hắn là hiệu lệnh cho cô phải tuyệt đối vâng lời. Lệnh ấy cũng có giá trị không kém lúc chạng vạng tối, hắn ra dấu tỏ ýù muốn cô ngủ lại với hắn suốt đêm nay.
Phần cô, cô hiểu rất rõ rằng việc người mẹ goá bụa và bốn anh em trai của mình được tiếp tục cho ở lâu hay mau trong dãy nhà chái dành cho bồi bếp, đằng sau lô đất trung tâm này, tùy vào việc cô an phận chiều theo, nhiều hay ít, mọi ý muốn của quản đốc đồn điền. Dù đã hết sức gạt sang một bên, thỉnh thoảng trong tâm trí cô vẫn hiện lên hoạt cảnh cưỡng bách và thô bạo sắp tới, khiến cô không che giấu nổi sự cau có bực bội đang vẽ thành lằn trên bộ mặt cam chịu.
Thông thường, trên giường của gã tây thuộc địa, thân hình cô vốn đã nhỏ bé lại càng co rút thảm hại dưới thể xác đồ sộ của Duclos dù đôi khi hắn tỏ ra cố gượng nhẹ. Hiếm khi hắn say nhưng cô có kinh nghiệm nhiều lần trước đây rằng tình trạng ngà ngà rượu sẽ biến cơn thèm khát nhục dục của hắn thành cuồng bạo. Cô đã rót cho Duclos năm sáu ly đầy ắp nhưng vẫn không thể biết tại sao hôm nay hắn uống quá nhiều rượu đến thế. Đột nhiên, hy vọng rằng biết đâu cơn say khướt sẽ làm hắn ríu mắt ngủ gục ngay trên ghế, không nhớ tới mình nữa, cô cho thêm thật nhiều whisky trước khi chế sô-đa vào ly.
Trong căn phòng chính của ngôi nhà, Duclos lại ưỡn người ra ghế, tự hỏi tại sao “con gái” pha rượu lâu đến thế. Hắn đưa mắt nhìn quanh, tia mắt vô tình đậu lại trên bức điện tín đánh từ Paris đang nằm lồ lộ ở góc bàn bên cạnh. Khịt khịt mũi cáu tiết, hắn với tay cầm lên. Rồi bằng giọng mũi khinh khỉnh, hắn gục gặc cằm đọc gằn từng tiếng:
- Các cổ đông yêu cầu giải thích tại sao tháng vừa qua số lượng sản phẩm xuất xưởng bị giảm. Thiết yếu là cần phải gia tăng sản xuất ngay lập tức để tới cuối năm hoàn thành chỉ tiêu dự trù.
Trong một chốc, Duclos hầm hầm ngó bức điện rồi nổi khùng, hắn vo mạnh, thành một cục tròn, ném vô góc nhà. Có phải bọn cổ đông khốn kiếp ấy chẳng bao giờ thoả mãn? Con số bình quân sản phẩm hàng tháng hiện nay cao hơn bao giờ hết. Kể từ lễ Giáng Sinh tới nay hắn đã cho xây thêm mười bể mới, lắp thêm một máy sấy khô, một nhà kho mới — và mọi sự đã đạt chỉ tiêu, bất chấp thực tế tháng nào cũng có hai chục tên “da vàng” ốm yếu lăn đùng ra chết vì sốt rét!
Lần đầu tiên, kết quả hàng chở đi chỉ mới sút giảm có một tí người ta đã muốn lấy máu của hắn! Họ đâu hiểu rằng hắn làm sao có thể bòn rút sản lượng ngày càng nhiều từ một lực lượng lao động bị bóc lột tận xương tủy qua việc họ chỉ chịu chi quá ít tiền nuôi nấng nó? Bộ họ không hiểu rằng ngay cả ngựa thồ cũng không thể kéo nặng nếu chẳng được cho uống nước và ăn rơm ăên cỏ đầy đủ? Máy móc cũng thế, nếu không được bảo trì tương xứng, nó phải hỏng thôi!
Duclos lại nguyền rủa các cổ đông rồi ngước mặt lên nhìn “con gái” An Nam vừa thầm lặng xuất hiện sát bên hắn. Khi đặt ly rượu mới pha xuống bàn sát bên khuỷu tay Duclos, cô tránh không nhìn chủ. Vẻ nhẫn nhục quen thuộc trên bộ mặt an phận của “con gái” làm hắn đột nhiên nổi khùng thêm. Nếu là đàn bà châu Aâu, có lẽ ít ra cũng đã vén môi, dù chỉ để mắng chửi hắn về việc uống quá nhiều rượu! Làm như thể tại cái xứ nhiệt đới An Nam khốn nạn này, rừng này, cái nóng này và những tên “da vàng” còm cỏi kia chưa đủ cho hắn chịu đựng! Cơn điên tiết cuồng nộ của hắn đối với các cổ đông ở chốn xa xôi nay đột nhiên và phi lý đổ ập xuống đầu người thiếu nữ câm nín.
Duclos chụp cánh tay cô gái. Cô đứng yên chịu đựng nắm tay khổng lồ kềm cứng của hắn nhưng vẫn giữ nguyên ánh mắt nhìn xuống sàn nhà. Trong cuồng nộ, hắn muốn bẻ cho gãy cổ tay mảnh mai có những đường gân xanh như cành sen ấy. Hắn bóp thật chặt cho tới khi người cô gái co rúm lại, nước mắt cô ứa ra. Rồi khi cơn thịnh nộ lên tới cực điểm, hắn bỗng hạ hoả, mỉm miệng cười.
Duclos một tay cầm ly rượu, một tay giật ngược chiếc yếm của “con gái” lên cho tới khi nó bị bứt tung quá đầu cô, phô trọn vẹn bộ ngực trần, nhỏ nhắn và trắng tươi. Hắn gật gật đầu ngó cô, tiếp tục mỉm cười. Rồi hất hàm ra hiệu về phía cửa, hắn xuống giọng bằng tiếng bản xứ:
- Mầy vô giường. Cởi sẵn váy ra!
Cô gái nhẫn nhục, lượm chiếc yếm đưa lên che ngực, đi như chạy ra khỏi phòng. Duclos tắt máy hát, tợp một hơi cạn ly rượu. Sau một tiếng khè đầy hơi men, hắn bước tới, cúi xuống lượm bức điện tín mạo phạm lên. Nhè nhẹ vuốt tờ giấy cho phẳng phiu, hắn lặng yên nhìn nó. Duclos lại ngồi xuống, đọc tới đọc lui không biết bao nhiêu lần. Vừa đọc hắn vừa gõ gõ ngón tay lên dĩa nhạc còn gắn trên máy hát, theo một nhịp điệu khích động, như thể đang đánh trống. Cuối cùng, hắn đứng thẳng người lên, vươn vai thở phào: xong, đã tìm ra giải pháp. Hắn gầm gừ thành tiếng:
- Được! Nếu Paris muốn bằng mọi giá tháng này sản lượng phải cao hơn, họ sẽ có! Cứ để cho họ học bài học tư bản chủ nghĩa theo một cách thức ác liệt nhất. Kể từ sáng mai, tụi “da vàng” bắt đầu làm việc mỗi ngày sớm hơn nửa giờ. Mỗi đứa phụ trách năm trăm cây thay vì ba trăm năm chục cây như hiện nay! Nếu bọn chúng có lăn đùng ra chết lẹ hơn cũng chẳng phải “lỗi tại tôi”!
Sãi chân bước ra khỏi phòng, Duclos nhăn mặt ngoái tay ra sau lưng giật mạnh cánh cửa, đóng rầm lại đằng sau. Vô tới phòng ngủ, hắn thấy cây đèn nhỏ đã được thắp sáng. Qua cảnh sắc lờ mờ bên kia lớp mùng chống muỗi, mắt lưới mỏng bằng vải tuyn, hắn có thể nhận ra hình dáng sẩm màu của cô gái nhà quê An Nam đang nằm chờ, trên người không một mảnh vải. Hắn vén mùng, đưa mắt đỏ ngầu nhìn xuống.
Cô gái nằm hơi nghiêng, một chân co lên, dùng bắp đùi che không để Duclos thấy chỗ bụng dưới. Đầu cô ngoảnh sang phía bên kia, tay gác lên che mặt. Vì cô nằm gần như ngửa nên đôi vú dàn ra trên lồng ngực, trông như ngực trẻ con. Chỉ hai đầu vú ánh lên phơn phớt hồng dưới ánh đèn mờ đục, vẫn nhỏng và căng dù cô đang e sợ. Hắn cũng căng phồng háo hức nên lóng cóng lắm mới cởi xong quần áo.
Cuối cùng, Duclos cũng hạ được tấm thân phốp pháp nhớp nháp mồ hôi và rất nặng của hắn xuống, phủ trùm lên cô gái. Lập tức, hắn lật đật đưa hai bàn tay thô nhám banh hai bắp đùi nhỏ bé của cô ra thật rộng. Rồi hắn lẹ làng nhập vào mình cô, không để ý tới tiếng rên đau đớn từng chặp vọng lên từ bên dưới bộ ngực đầy lông của hắn.
Mấy phút sau, trong tiếng đồng hồ kêu tích tắc thật chậm, Duclos cong người lên rồi rập xuống mạnh hơn, miệng kêu ư ử như một con vật, cho tới khi hắn trút vào cô thú tính của hắn. Xong, thể xác đồ sộ của hắn đổ sập xuống, ngã vật qua một bên. Lập tức, tiếng ngáy đầy men rượu của hắn cất vang, làm chìm lĩm tiếng khóc rấm rứt tủi hận của cô gái An Nam nhỏ bé
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:50 AM
TẬP I - Phần Thứ Hai - Hận Thù Của Triệu Cu-Li - 1929-1930
- 2 -
Trong trời còn lâu mới rạng sáng, chiếc áo choàng đen đủi tối tăm của đêm vẫn bọc kín rừng thẳm lẫn Làng Số Ba trong đồn điền cao su, bọn cai An Nam, những kẻ tiếp tay cho quản đốc đồn điền người Pháp và các nhân viên người Âu, đã bắt đầu khua kẻng rền lên trên khu nhà lán. Bên trong những dãy lều lụp xụp, nhèm nhẹp và đầy hơi người, cu-li lập tức duỗi hai chân cứng nhắc, vươn hai vai tê mỏi, lê thân ra khỏi manh chiếu ẩm ướt. Họ biết rõ chỉ chưa đầy một hai phút, bọn cai sẽ ập vào nhà lán, quật mạnh ba-toong xuống để đánh cho bật người lên những kẻ chậm chạp.
Chân vấp loạng choạng, Ngô văn Đồng lật đật kéo em đứng dậy khi Sáu Nam, thường thích được gọi văn vẻ là Đức Anh, gã cai mặt rỗ hoa, mắt còn một con, phụ trách dãy nhà lán của hai anh em, đang lạch bạch trờ tấm thân to béo cục mịch tới. Hắn là kẻ thuộc tầng lớp đặc quyền gồm những gã An Nam hung ác, trình độ trí tuệ thấp kém, may mắn được học hành đôi chút, thường phục vụ thực dân Pháp trong vai trò cai ngục, cai phu hoặc sen-đầm. Trong số bọn cai của đồn điền này, cai Đức Anh được Duclos đặc biệt chiếu cố vì tâm địa hắn tàn nhẫn và tính khí hắn thích những trò độc ác. Hợp với tinh thần nô dịch mà lúc nào cai Đức Anh cũng tìm cách chứng tỏ cho Duclos thấy, hắn dùng trò trừng trị người đồng chủng để biểu lộ lòng trung thành và thiện chí đối với quan tây oai vệ, đồng thời khẳng định quyền uy của hắn trên các cu-ly hèn mọn.
Khi cai Đức Anh đặt chân tới khu vực của Đồng và Học, trời mới bốn giờ sáng. Hách dịch, hắn trợn mắt dậm bước vô nền đất giữa nhà lán, đi thẳng tới chỗ hai anh em, quét đèn pin hết bên trái sang bên phải để tìm lý do vung lên ngọn roi mây to tướng hắn vẫn dùng làm ba-toong. Cai Đức Anh chưa đặt chân tới gần, đã nghe có tiếng tiếng sàn sạt rùng rợn của ngọn roi mây quất vào da vào thịt. Một cú. Hai cú. Đồng và Học nghe tiếng roi quật xuống nhưng không làm văng lên tiếng thét đau đớn van xin nào như thường lệ. Quật xuống thân xác người cu-li tới lần thứ ba, cai Đức Anh mới kịp nhận ra rằng con người bất hạnh nằm đó đã vượt qua tới bên kia những thống khổ, khốn khó và lao động sản xuất. Không dừng chân, không tỏ vẻ hối hận, hắn chĩa đèn pin vô mặt hai anh em. Hắn vung roi, quát lớn bằng giọng the thé nằng nặng lối phát âm miệt ngoài Huế:
- Đi lấy dây thừng, đòn gánh với xẻng, rồi sương cái xác hôi thúi này vô rừng giải quyết! Mau!
Với bộ mặt hung hiểm, cai Đức Anh thêm lần nữa hoa roi thành một vòng cung hăm dọa. Hai anh em Đồng và Học đi rồi; hắn rút trong túi áo sơ-mi ra cuốn sổ nhỏ. Gầm gừ ư ử trong cổ họng, hắn cáu kỉnh vạch vào sổ một dấu chữ thập, ngay phía dưới con số thứ tự của nhà lán.
Bên ngoài nhà lán, trong bóng tối, Đồng đứng lại, đẩy cậu em đang run lẩy bẩy vào vách nứa mỏng mảnh:
- Em núp lại chỗ này! Anh đi nhờ Già Trung phụ một tay. Nhớ lấy cả đồ nghề của anh với em. Nếu anh về không kịp, khi điểm danh nhớ lãnh đủ hai suất ki-ninh.
Cậu nhét vô tay em cục cơm nguội nhỏ bằng nắm tay bọc bằng lá cọ, được mỗi cu-li dành dụm từ đêm trước để sáng hôm sau có cái ăn lấy sức bắt đầu một ngày lao nhọc mới:
- Học ăn vắt cơm của anh cho khỏi sốt — sáng nay anh không đói.
Lặng lẽ gật đầu, Học ngó anh lao mình chạy đi lấy dụng cụ mai táng nơi khu nhà ở của bọn cai. Khi trở về, Đồng thấy người chết nằm co quắp, cứng đờ, không có chút sức nặng nào. Cũng như nhiều tá điền khác ở vùng châu thổ sông Hồng, anh buộc lòng phải lê bộ mặt hốc hác vào miền nam vì các trận bão mới đây liên tục càn quét phương bắc, làm đê vỡ, ruộng vườn ngập nước. Anh vào làm việc tại đồn điền cao su này chưa tới một tháng đã đầu hàng bệnh sốt rét. Phờ phạc kiệt sức vì công việc nặng nhọc và những đợt sốt ác tính, anh nói rất ít về bản thân và về gia đình mình bỏ lại ở ngoài kia.
Già Trung, một cu-li ký hợp đồng ba năm, tính người quen chịu đựng. Già đã quá kỳ hạn vẫn phải tiếp tục ở lại đồn điền vì không đủ tiền và không có quần áo lành lặn mặc về quê. Già rất thương Đồng và Học, sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi hai anh em cần tới.
Không hiểu Già Trung moi từ đâu ra một cút rượu đế trắng nấu bằng gạo. Ông phun rượu vào các khớp xương tay chân người chết rồi kéo chúng duỗi ra. Xong, ông cuốn xác vào manh chiếu lác, tài sản độc nhất của người phu cạo mũ vắn số. Dùng sợi thừng Đồng đem về, ông thắt hai thòng lọng tròng vào hai đầu cuộn chiếu. Phần dây còn lại, ông thắt thành một chiếc gióng để luồn cây đòn gánh vào đó. Cứ xong mỗi công đoạn, ông lại chắp tay vái người chết một vái. Ông làm các việc ấy một cách gọn gàng tươm tất, chứng tỏ ông đã quá quen với việc chôn cất.
Già Trung và Đồng mỗi người một đầu, gánh xác chết đi về phía bìa rừng cách đó tám trăm thước. Cai Đức Anh đi theo canh chừng. Con mắt độc nhãn của hắn long lanh sòng sọc. Tay hắn thỉnh thoảng hoa roi vun vút sau lưng hai cu-li, thúc cho họ bước nhanh hơn. Sau cùng, hắn quát lớn, vung roi thật mạnh để buộc hai cu-li phải đi sâu vô rừng:
- Sương nó vô trong nớ thiệt sâu, xa bìa rừng ít nhất một trăm thước!
Bầu trời rạng dần với những vệt sáng yếu ớt từ phương đông le lói rọi tới. Khi hai cu-li mới vào rừng được khoảng ba bốn chục thước, khuất tầm mắt của tên cai, Già Trung lập tức đứng lại, ra hiệu cho Đồng cầm xẻng đào đất:
- Lẹ lên! Giờ này lũ cọp đói bụng nhất!
Đồng đào như điên. Cậu dùng xẻng ì ạch hất lên những tảng đất ngấm nước mưa nặng trĩu. Phải mất hơn chục phút mới đào được một lỗ sâu chừng năm tấc. Khi Đồng ngừng một chút để quệt mồ hôi ngang lông mày, Già Trung đặt bàn tay báo động lên vai cậu: “Nghe!” Cả hai căng thẳng, đứng cứng người, lắng tai nghe ngóng rừng cây đang im lìm bọc kín bốn phía.
- Tao chắc chắn có nghe tiếng con gì kêu sột soạt.
Già Trung ngước đầu vễnh tai lên lâu hơn một chút rồi nhìn xuống lỗ huyệt:
- Đủ rồi! Mầy túm một đầu chiếu.
Đông tần ngần ngó xuống lòng huyệt chưa đủ sâu:
- Nhưng còn cạn quá...
Dưới lùm cây từ một chỗ khá xa đằng sau hai cu-li, có tiếng chân dậm mạnh, rồi tiếng gầm của cai Đức Anh vừa lớn vừa lắp bắp:
- Tau kêu… mi núm lấy! Mau.. lên!
Đồng làm theo lời gã cai. Cả hai thả hình hài xương xẩu và không còn sự sống xuống chỗ đất lõm như ổ gà. Già Trung tháo dây thừng, quấn vào hông để lát nữa nộp lại cho bọn cai. Xong, ông sửa lại manh chiếu ngay ngắn, đắp kín mặt người chết. Ôâng chấp tay vái lia lịa bốn vái, rồi dùng cả hai tay lùa đất phụ với Đồng, thật lẹ. Khi vùi xong, không hiểu sao một bàn chân của người chết lại bật lên, lòi ra trên mặt đất. Thấy vậy Đồng chụp xẻng định đào nữa. Già Trung túm vai Đồng, xoay hẳn người cậu về hướng Làng Số Ba:
- Đừng! Vậy thôi, đủ rồi! Mầy lương tâm quá! Nó còn tốt hơn, sâu gấp vạn những cái huyệt tao từng thấy trước đây. Mình không lập tức vọt cho lẹ thì xong ngay cuộc đời chung với nó!
Đồng ngoái nhìn lần cuối, người nổi gai ốc khi thấy bàn chân ấy như thể tách lìa khỏi xác chết, giơ lên kêu cứu trên mặt đất đỏ trong rừng. Cậu nhắm mắt khấn vái tổ tiên mình cùng tổ tiên người vừa quá vãng, khẩn cầu tha thứ. Rồi Đồng quay mình chạy thật lẹ, bắt cho kịp Già Trung.
Khi hai cu-li chạy hết tám trăm thước, về tới khu vực nhà lán, con cọp già âm thầm theo dõi họ từ lúc nãy trong chỗ tranh tối tranh sáng, lúc này trườn mình ra khỏi chỗ rình. Không một chút khó khăn, con thú ngoạm bàn chân đang chỉa lên trời, kéo xác người cu-li lên khỏi mặt đất rồi cả thú lẫn người biến mất trong vùng cỏ mọc cao ngang đầu gối. Ung dung nơi hang sâu, chẳng mấy chốc hai hàm răng mạnh bạo của cọp cắn nát vụn lồng ngực và đôi vai gầy còm của người phu cạo mủ bạc phước ấy, biến chúng thành một cục nhuyển nhừ, đẫm máu.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:51 AM
TẬP I - Phần Thứ Hai - Hận Thù Của Triệu Cu-Li - 1929-1930
- 3 -
Đồng và Già Trung nhào vào hàng điểm danh bên ngoài khu nhà lán, đứng kèm hai bên Học, đúng lúc việc kiểm người và phát liều thuốc ki-ninh buổi sáng vừa chấm dứt. Học còn tái xanh nhưng người đã bớt run rẩy. Năm trăm phu cạo mủ Làng Số Ba xếp hàng ngang, thành mấy cụm phía trước các nhà lán, đứng câm lặng, lấm lét. Họ chỉ dám đưa mắt dò hỏi nhau với lòng thắc mắc tại sao sáng nay bị dựng đầu dậy quá sớm, hơn thường lệ nửa giờ. Và tại sao hình dáng vạm vỡ, đáng sợ của gã quản đốc đồn điền đã lù lù một đống ở đó, dưới cột đèn độc nhất trong khu vực nhà lán. Hơn nữa, hình như hắn đang nóng nảy chờ sớm kết thúc cuộc điểm danh tập thể.
Lưng và vai trầy trụa những vết roi vừa bị quất nhắc cho phu cạo mủ nhớ rằng sáng nay bọn cai và mấy tên phụ tá tây thuộc địa hung hãn khác thường. Phải chăng toàn thể cu-li cần được trừng trị vì đêm qua có xảy ra một âm mưu nổi loạn tập thể nào đó ở Dầu Tiếng? Hoặc có thêm mấy căn nhà ở của bọn cai trong một đồn điền nào đó ở Trảng Bom bị cu-li đốt? Nắm chặt cây mác, đồ nghề chích mủ, cái cù ngoéo bằng sắt, đồ nghề cạo mũ, và thùng đựng mủ của mình, ai nấy đềụ thấp thỏm chờ đợi, e ngại nhìn gã quản đốc đồn điền và ngó cây roi mây trong tay tên cai đứng gần hàng của mình.
Duclos leo lên chiếc thùng tô-nô gỗ lật sấp, kê riêng cho hắn, ngay chỗ bóng đèn rọi thẳng xuống. Dù trời chưa sáng hẳn, Duclos đã như thường lệ, đội chiếc mũ cối làm bằng ruột bần. Hai tay áo sơ-mi dày xăn cao quá cùi chỏ, phô lồ lộ hai bắp tay rắn chắc, rám nắng. Hắn mặc quần soóc, lòi hai bắp chân mọc đầy lông. Chân mang ủng đi rừng to như chân voi, với bít-tất dày và ngắn. Bụng hắn quấn thắt lưng da to bản. Ngang hông, đeo oai vệ con dao rừng dài như mã tấu, cán bằng xương, cắm gọn gàng trong bao.
Đứng trước toàn thể cu-li, bàn tay mặt của Duclos theo thường lệ, đặt lên chuôi dao, như thể đó là thanh kiếm nghi lễ. Hít một hơi thật sâu cho căng phồng thêm lồng ngực vốn đã to không kém thùng phuy, rồi vễnh mắt nhìn vào đám đông cu-li đang cúi đầu, Duclos rống lên bằng thứ tiếng Việt rất sõi:
- Tôi nói thêm lần nữa cho các ngươi hiểu. Hai chục năm trước đây, trên toàn cõi Đông Dương này, hoàn toàn không có một cây cao su nào. Biết chưa? Các ngươi nghe rõ không? Mười lăm năm trước, tại đây, nơi cái đồn điền tôi và các ngươi đang sống và làm việc hôm nay là rừng rú chưa ai khai phá, chỉ có voi, cọp và lũ thú hoang đi lại từng bầy từng lũ! Rồi người Pháp chúng tôi tới đây, vượt qua hai chục ngàn cây số đường biển. Các ngươi nghe rõ không? Chúng tôi làm đường sá, lập làng mạc, mang cây cao su vô đây, trồng cây cao su bạt ngàn, hết cây số này tới cây số khác trên đất đai bỏ hoang của các ngươi. Chúng tôi đã lập nên các khu vực thịnh vượng và văn minh kỹ nghệ trên vùng đất hoang đầy dẫy vi trùng sốt rét của các ngươi! Các ngươi nghe rõ không?
Ngừng một chút, hắn chống nạnh, ưỡn người lên theo tư thế nghênh chiến:
- Chúng tôi đã phải bỏ hết sức lực ra lao động suốt bao nhiêu năm trời mới thành công, mới có được chén mủ cao su đầu tiên, các ngươi nghe rõ không? Bão mạnh thổi gãy cây lớn, lửa rừng đốt rụi từng vạt, hạn hán tàn hại cây con — nhưng chúng tôi không bao giờ chịu thua, cứ thế chúng tôi gây giống!
Duclos ngưng nói, tiếp tục ngạo mạn rướn người lên cao hết cỡ:
- Ngày nay, đồn điền của chúng tôi đã thành một nơi tươi tốt nhất toàn cõi Viễn Đông! Các ngươi nghe rõ không?
Phu cạo mũ ngọ nguậy bứt rứt. Mắt họ tránh nhìn bộ mặt gườm gườm của gã Corse. Trong các cu-li, những người lớn tuổi nhất, từng nhiều lần nghe mãi câu chuyện kể công huênh hoang ấy, ïlinh cảm rằng cứ mỗi lần bị nghe là cuộc sống khốn khổ của họ sắp phải nếm thêm mùi vị khắc nghiệt mới.
- Tôi, Duclos, tôi chịu trách nhiệm quản lý đồn điền Vị An này. Tại đây, tôi không tha thứ cho bất cứ tên “da vàng” nào biếng nhác, lười chảy thây, làm ăn chẳng ra cái đống đế gì...
Cặp môi Duclos cong cớn đầy vẻ miệt thị khi hắn dùng cái lối gọi có tính sỉ nhục của tây thuộc địa: “jaunes, những tên da vàng”.
- Tháng vừa qua, sản phẩm của chúng tôi sụt hẳn vì sự lười biếng đê tiện của các ngươi. Các ngươi làm mất lòng hết thảy quí vị chủ nhân có cổ phần ở Paris. Họ muốn rằng năm 1929 này phải là năm sản xuất cao su nhiều hơn năm nào hết. Tôi và các ngươi chỉ còn chưa tới ba tháng nữa là hết năm. Các ngươi nghe rõ không? Vậy, chỉ tiêu chăm sóc cây hằng ngày của mỗi cu-li được tăng lên cho đúng với năng xuất lao động của các ngươi. Nghĩa là từ ba trăm năm chục cây hôm qua sẽ lên thành năm trăm cây kể từ hôm nay. Các ngươi nghe rõ không?
Dừng lại lần nữa, Duclos đưa mắt khiêu chiến nhìn lần lượt từng hàng người An Nam đang tái mặt, co rúm:
- Đó là lý do sáng nay các ngươi được đánh thức sớm. Tôi nhắc lại, kể từ hôm nay, các ngươi mỗi người phải giải quyết mỗi ngày năm trăm cây — người nào không đạt đủ con số đó sẽ bị trừng trị bằng cách trừ tiền lương, cho ăn đòn hoặc bị giải tới nhốt xà lim trong đồn Ngả Ba Ông Đồn, cùm bằng xích sắt. Các ngươi nghe rõ không?
Một thanh niên phụ tá người Pháp chuyên nuôi con ngựa trắng Duclos thường ngày cỡi dạo quanh đồn điền, bước ra theo tay vẫy của hắn. Anh ta giữ cho con vật đứng yên, chờ chủ leo lên, xong kính cẩn trao chủ dây cương. Giật cương quày đầu ngựa đối mặt với đội hình cu-li, Duclos rút cây ba-toong dài bằng gỗ trắc trong chiếc bao da gắn một bên yên. Hắn đứng thẳng người trên bàn đạp:
- Đi làm, lẹ lên! Hễ làm chưa đủ chỉ tiêu chớ vác mặt về cho tôi thấy.
Vừa gào lớn lệnh xuất phát, Duclos vừa thúc ngựa xông vào mấy cu-li đứng hàng đầu, làm họ hốt hoảng, quay lưng, chạy tán loạn về phía rừng cao su.
Vẫn chưa tới năm giờ sáng. Trong trời nhá nhem khó có thể phân biệt rõ cây nọ với cây kia, Đồng và Học thở hổn hển chạy dọc các hàng cây đứng san sát nhau trong lô cao su phân công cho hai anh em. Chân chạy liên tục từ cây này sang cây nọ, cứ cách vài phút chúng gọi lớn tên nhau để khích lệ và dò chừng người anh em đang làm tới đâu.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:52 AM
Lần chích mủ thứ nhất ba trăm năm chục cây mất năm tiếng đồng hồ, phải làm xong trước mười giờ sáng. Cả hai chỉ dám bỏ ra chưa đầy một phút cho mỗi cây. Dùng cù ngoéo cạo sạch mủ khô, sửa ngay ngắn chén hứng mủ và ấn mũi mác rạch mấy đường lằn mới để ban ngày cây theo đó ứa nhựa ra. Hai anh em phải làm chừng ấy việc thật lẹ và kỹ. Nếu có một đường rạch chưa đủ độ sâu, bị tên cai An Nam hoặc nhân viên người Pháp nào đó kiểm tra phát hiện, cứ tính mỗi cây năm roi.
Đúng mười giờ, tiếng còi hụ chẻ không khí nóng bức bên trên đồn điền báo hiệu sắp bắt đầu việc lấy mủ. Vừa nghe còi hụ, hai anh em chạy hai cây số ngược trở lại chỗ bắt đầu các hàng cây của mình. Chúng lại lần nữa khởi sự lao từ cây này sang cây khác, trút sạch từng chén hứng mủ vào chiếc thùng mang theo. Thùng đầy, chúng xách thùng tới một trong nhiều trạm gom mủ. Từ chỗ đó, xe tải chở mủ về các nhà kho trung tâm.
Lúc Đồng và Học làm xong việc lấy mủ, trời vừa đứng bóng. Ánh mặt trời rọi thẳng đỉnh đầu và rừng cây cao su bốc hơi nghi ngút trong cái nóng ngột ngạt. Sau bảy giờ vất vả không ngừng, hai anh em mệt lả, vật mình xuống mặt đất đỏ dưới bóng cây cao su. Gần năm trăm cu-li khác trong đồn điền cũng chẳng hơn gì, đều nằm lịm như chết. Vừa cảm thấy đỡ mệt đôi chút, họ bật dậy, lật đật nấu nước uống và nhai vội nắm cơm để dành từ tối qua; vừa ăn vừa chiêu vài ngụm nước cho dễ nuốt.
Tiếp đó, thông thường từ một giờ trưa tới lúc mặt trời lặn, họ phát quang các bụi cây thấp hoặc làm cỏ quanh gốc cây cao su, nhưng với chỉ tiêu mới do Duclos đề ra sáng nay, họ phải chích mủ và lấy mủ thêm, gấp rưỡi số cây thường ngày, dưới cái nóng ban trưa ghê gớm dù vừa tiêu hao quá nhiều sinh lực. Sau đó mới tới việc phát quang, làm cỏ cả năm trăm gốc cây.
Học đang làm nửa chừng lại lên cơn sốt, phải ngồi nghỉ. Đồng chạy như điên giữa các hàng cây nối tiếp nhau như vô tận; vừa làm cây của mình vừa làm thay cho em. Cậu thà kiệt sức, miễn sao cứu Học khỏi một trận đòn không tránh khỏi nếu tại trạm gom mủ, bọn cai mặt mũi chàu quạu thọc thước đo vô thùng, thấy số mủ chưa ngang lằn mức qui định.
Sắp bảy giờ chiều, sau lưng hai anh em, mặt trời đang lặn. Hoàn tất con số chỉ tiêu mới, Đồng và Học kiệt sức, lê lết trở về khu vực nhà lán Làng Số Ba với bàn chân sưng vù, hai cánh tay gần như tê liệt.
Tới cổng, chúng thấy bọn cai đang lùa cu li tập họp trước các dãy nhà lán để chứng kiến cảnh chúng công khai trừng trị những kẻ không đạt chỉ tiêu mới. Cu-li phờ phạc, hoảng hốt va vấp nhau trong khi bọn cai quất bừa roi mây vào đầu vào vai họ để xếp họ đứng quây thành vòng tròn. Một nhóm chừng ba bốn chục người đứng tách riêng ngay chính giữa vòng tròn, đầu củ rủ, mắt cụp, hai tay buông xuôi tuyệt vọng.
Đồng ép sát vào người Học, vòng tay ôm lưng em che chở và đẩy em len sâu vô bên trong. Ở đó, ít ra hai anh em không thấy hoặc không bị roi mây quất trúng như những người ở mé ngoài. Duclos đứng dạng chân trên mình ngựa, hằm hằm ngó xuống. Khắp khu vực nhà lán im bặt khi hắn rút ba-toong ra khỏi bao da, vung lên thật cao, phát hiệu lệnh cho bọn cai ra tay.
Mẻ đầu tiên gồm năm cu-li. Họ bị đẩy nằm sấp mặt xuống mặt đất đỏ nhớp nháp. Bệ vệ chỉ huy đầu đàn là gã cai Sáu Nam, tức Đức Anh. Hắn hạ lệnh cho năm tên phụ việc lấy roi mây quất xuống gan mười bàn chân trần đang lật ngữa. Trước khi cùng quất một lượt, chúng hoa ngọn roi lên đầu thật đều, theo một động tác vũ đạo đẹp mắt, có tính toán sẵn và thành thạo lâu ngày. Đánh nhịp cho các đường roi đúng qui cách ấy là tiếng thở nghèn nghẹt và tiếng khóc tấm tức của kẻ bị đòn. Mỗi cu-li nạn nhân lãnh đủ năm chục roi, bất kể thiếu chỉ tiêu nhiều hay ít.
Cai Đức Anh bình thản đếm. Thỉnh thoảng hắn lấm lét liếc Duclos để đảm bảo mình thực hiện đúng ý của chủ. Tới lằn roi thứ năm chục, cai Đức Anh ra hiệu cho năm tên phụ việc dừng tay. Chúng lập tức buông roi, túm vai nạn nhân lôi dậy, bất chấp tiếng van nài xin nhẹ tay của họ.
Duclos lại vung cây ba-toong, thét lớn:
- “Nhanh như thỏ!” Bây giờ, chạy mau lên, vọt lẹ như thỏ rừng cho ta coi!
Bọn cai lấy đầu gậy chọc vào mông năm nạn nhân cho tới khi họ nhấc nổi bàn chân sưng vù và tươm máu lên, nhảy cà nhắc chung quanh vòng tròn gồm gần năm trăm phu cạo mũ đang đứng. Ai té xuống thì bị roi quất cho tới khi đứng dậy nhảy tiếp. Năm nạn nhân miệng rên rỉ không ngớt. Người này vừa gượng đứng lên kẻ khác đã té xuống, khi đổi chân nhảy lò cò, khi ngồi nhảy xổm sát đất, khi vừa bò vừa trườn. Trông họ giống một cách quái đản những con thỏ rừng đang vọt mình chạy. Trong khi họ chưa nhảy tới đích, mhóm nạn nhân kế tiếp bị đẩy úp mặt xuống đất làm mẻ thứ hai.
Cuộc trừng phạt đang tiếp diễn bỗng có tiếng động cơ gầm rú làm xôn xao hiện trường. Ba chiếc xe tải không mui chở đầy cu-li mới mộ lao nhanh vào khu vực nhà lán, tung bụi đỏ mù mịt. Theo sau đoàn xe, một chiếc Citroešn đen bóng loáng chạy thẳng tới, rồi dừng lại kế bên con ngựa của Duclos. Cai Đức Anh đưa mắt dò hỏi nhìn chủ, không biết nên tiếp tục hay tạm ngưng cuộc trừng phạt. Gã Corse đưa tay ra hiệu cứ thế tiếp tục, đồng thời hắn trợn mắt xua đám đông tránh qua một bên, để những kẻ sắp làm cu-li nhìn tận mắt những gì đang diễn ra.
Vì cao hơn người bình thường, Đồng có thể nhìn qua đầu đám đông, thấy rõ đoàn người mới tới. Trong chốc lát, Đồng giật mình khi bắt gặp hai bộ mặt quen thuộc từ hơn một năm nay cậu không thấy.
Một người Âu cao, vai còng, mặc vét-tông trắng và đội mũ nỉ, từ chiếc xe hơi bóng lộn bước xuống, chìa bàn tay trắng xanh ra bắt tay Duclos. Đồng nhận ra ngay gã chính là Auguste Lepine, giám đốc Sở Mộ phu Bản xứ. Mười tám tháng trước đây, gã cùng với một tên cai dụ dỗ cậu và em cậu rồi chở thẳng vô đồn điền này. Tuy lòng vẫn căm hận gã, Đồng chẳng cảm thấy hứng thú ngó gã thêm lần nữa.
Cái nhìn sửng sờ của Đồng gắn chặt lên bộ mặt quen thuộc thứ hai ngay chính giữa đám đông người An Nam đang nổi gai ốc trên chiếc xe tải thứ nhất khi đột ngột chứng kiến trận đòn công khai này. Bộ mặt ấy phờ phạc với hai con mắt tìm kiếm đã lâu lắm cậu không thấy: đó chính là bộ mặt của cha cậu!
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:54 AM
TẬP I - Phần Thứ Hai - Hận Thù Của Triệu Cu-Li - 1929-1930
- 4 -
Claude Duclos đưa mu bàn tay lên quệt bọt sâm-banh bám trên ria mép và thêm lần nữa rót đầy ly cho Auguste:
- Làm thế nào anh mộ được bọn chúng dài dài vậy? Tôi nghe thiên hạ đồn rằng anh cố ý phá cho đê miền bắc vỡ ra từng mảng và làm cho ngập lụt ruộng đồng ngoài đó để chở những tên “da vàng” đang đói lè lưỡi vô rừng cao su trong nam cho chúng tôi. Có đúng không đấy?
Bộ mặt gà mái của Lapine cau lại; khắp khuôn mặt ánh lên vẻ cười khinh khỉnh. Thay cho câu trả lời, gã lôi trong va-li ra một xấp ảnh bóng láng, đặt xuống bàn, rồi đẩy về phía tên Corse. Khi ly của cả hai không còn rượu, Duclos sốt ruột dộng cồm cộp chai sâm-banh rỗng lên mặt bàn. Cái nóng ngột ngạt làm hắn và gã mộ phu tươm mồ hôi dù có hơi gió nhè nhẹ từ quạt máy thổi ra. Xa xa vọng về tiếng sấm báo hiệu cơn bão đêm sẽ tới sớm hơn thường lệ. Lau trán bằng chiếc khăn tay ướt sủng mồ hôi, Duclos nhìn xuống xấp ảnh.
Một số bức ảnh cho thấy các gia đình An Nam mặc quần áo tươm tất, đứng cười tươi tắn trên lối vào các ngôi nhà khang trang được dựng trong khu vườn nhỏ có trồng hoa, cạnh những vạt cây cao su thẳng tắp. Trong mấy bức ảnh khác, những phu cao su trắng trẻo khỏe mạnh đang ung dung cạo mủ trong khi mấy người Pháp thân thiện, đội mũ cối trắng, đứng nhìn qua vai họ với vẻ mặt ân cần và độ lượng. Duclos vừa giở lướt từng bức vừa cười ác liệt:
- Tuyệt thật, ông bạn ạ. Quá tuyệt! Anh cho chúng nó chiêm ngưỡng ba cái thứ này, sau đó, anh phải dựng rào cản để lọc lựa hàng ngàn đứa đổ xô nhau tới dự tuyển, đúng không?
Gã mộ phu trả lời với giọng bị chạnh lòng:
- Không hoàn toàn dễ dàng như thế, Duclos. Mộ cho được phu cũng cực nhọc lắm. Năm ngoái, tôi chỉ có thể cung cấp cho các đồn điền ở Nam kỳ và Trung kỳ ba mươi lăm ngàn cu-li người bắc — và gởi bằng tàu thủy mười ngàn tên nữa đi Nouvelles-Calédonie.
Người Corse huýt dài một tiếng sáo ngưỡng mộ:
- Bốn vạn rưỡi con người ta! Có phải anh kiếm mỗi đứa mười lăm đồng không? Nghĩa là được suýt soát bảy trăm ngàn đồng bạc Đông Dương!
Hắn nhắm mắt tính nhẩm rồi mở lớn mắt, nhè nhẹ huýt sáo thêm lần nữa:
- Auguste này, khoảng bảy triệu phật-lăng đấy — trong một năm kiếm tới chừng ấy bạc, chẳng tệ chút nào!
Nói xong, Duclos mỉm cười đưa tay phác nhè nhẹ một cử chỉ đầy ngưỡng mộ. Rồi hắn sờ vào bộ vét-tông bằng vải lanh may cắt thật khéo, áo sơ-mi lụa mềm mại, và ngó xuống đôi giày thủ công của gã mộ phu:
- Auguste ạ, thật không ngạc nhiên thấy lúc này anh đủ sức chưng diện như một nhà đại quí tộc ăng-lê.
Lepine nói chua chát:
- Nếu mức hao hụt của các người tại mỗi đồn điền không lên cao như hiện nay, các người đâu cần tôi lúc nào cũng phải cung cấp cu-li mới. Nếu anh đối xử với bọn chúng khá hơn một tí, chắc chắn chúng không tự làm cho mình ra tàn tật, què chân gãy tay như bây giờ, để cố thoát cho khỏi nanh vuốt của anh vì thà đi ăn mày còn sướng hơn làm phu cạo mủ!
Gã liếc một xấp giấy khác:
- Con số người của anh chết sốt rét lại cao hơn lần trước. Tôi hỏi thật, anh khai như thế có phải để giấu diếm chuyện chúng nó hầu hết tự tử không đấy?
Duclos sửng sốt vì giọng điệu thù nghịch của Lepine. Hắn bực bội ngồi thẳng người lên trên ghế:
- Này Auguste, cái mốt thời thượng tự ý hủy hoại thân thể ấy đang bị triệt cho bằng hết. Lúc này chúng nó đã biết dù có làm cho mình què chân gãy tay nặng tới cỡ nào đi nữa, cũng bị chúng tôi tống thẳng vô xà lim ở Ngả Ba Ông Đồn ngay tức khắc. Hơn nữa, nếu có nhiều tên “da vàng” chết sốt rét ngay chính trên thổ ngơi quen thuộc của chúng, tôi cũng đành bó tay thôi.
Hắn vừa nói vừa nhún vai tỏ vẻ bất lực:
- Tôi bị bắt buộc phải đối xử khắc nghiệt với bọn chúng. Lũ cổ đông ở Paris cứ cũng muốn tăng sản lượng lên mãi. Bọn chúng đầu tư mười hai triệu phật lăng, đã kiếm lãi được sáu triệu rồi — vậy mà lúc nào cũng muốn lãi nhiều hơn nữa.
Lepine ngáp, đưa bàn tay mệt mỏi lên vuốt mặt rồi cười khẩy:
- Anh chỉ nói tới các cổ đông ở Paris, làm như thể bản thân anh chẳng có tí cổ phần nào trong đồn điền này. Có lẽ anh cảm thấy dễ chịu cho mình hơn khi tưởng tượng ra tất cả những việc anh làm ở đây đều do chỉ thị của một bọn ăn thịt người đang ở chốn xa xăm nào đó.
Với nụ cười bối rối Duclos chống chế:
- Auguste ạ, số cổ phần của tôi ít lắm, chẳng đáng kể vào đâu so với các cổ đông chính.
Trong một thoáng hắn nhìn nét mặt cứng trửng như vỏ cây cao su của gã mộ phu. Những hố lõm thâm quầng quanh hốc mắt và nước da khô như đang rạn, cho thấy một tình trạng nghiện á phiện lâu năm. Duclos đoán tính dễ nổi cáu của gã phát sinh từ tật ghiền ma túy ấy:
- Nhưng anh bạn thân ạ, tại sao chúng ta lại sống ở xứ thuộc địa để kéo dài cuộc đời khốn nạn như thế này nếu không phải vì chúng ta muốn cho mình vui thú một chút, đồng thời dành dụm ít nhiều cho tuổi già, đúng vậy không?
Cố làm gã khách vui lòng, tên Corse cầm ly sâm- banh lên, nâng về phía khách, mời gã cùng uống để tán thưởng ý kiến mình vừa phát biểu. Nhưng gã mộ phu vẫn lầm lì ngồi yên, không thèm để ý tới Duclos.
Ngay lúc đó, có tiếng sấm nổ ran trên mái ngói và cơn bão ập tới. Mưa bắt đầu đổ ào ạt bên ngoài ngôi nhà. Cả hai lắng nghe trong một lúc rồi Duclos bồn chồn đứng lên, đi tới máy hát dĩa. Đè tay lên cần dây cót, hắn nói:
- Auguste ạ, có lẽ chúng ta cần một chút nhạc jazz. Tôi thấy nó là cái duy nhất giữ cho “con nhện u sầu” không giăng tơ quanh tôi những lúc tôi ở một mình. Khi không có ai ở đây, tôi cố giữ mình đừng uống nhiều rượu quá. Nếu không có thứ nhạc jazz mình thích e rằng tôi không thể nào sống sót trong cái xứ nhiệt đới này. Anh muốn nghe loại nào? Tiếng kèn xắc-xô của Sidney Bechet nhé? Tôi có “Wild Cat Blues — Nỗi buồn ghê gớm của mèo hoang”, hay “Kansas City Man — Người đàn ông Thành phố Kansas”?
Lepine nhún vai hờ hửng. Quản đốc đồn điền đặt lên máy một dĩa hát do hắn tự chọn. Trong một lúc, hắn đứng chăm chú lắng nghe tiếng kèn xắc-xô đua chen với tiếng gầm rú của cơn bão ngoài trời. Rồi Duclos trở về ghế ngồi, cầm ly sâm-banh lên uống cạn. Hắn nói, nghiêng mình trịnh trọng về phía gã mộ phu:
- Này Auguste, cũng có một mốt thời thượng khác chúng tôi đang dập cho tắt ngúm tại đồn điền này, đó là chủ nghĩa Bôn-sê-vich. Anh có nghe nói tới tình trạng lộn xộn đang xảy ra ở đồn điền Michelin rộng lớn tại Phú Riềng với những “tên đỏ xách động” nguy hiểm không?
Nhạc jazz từ chiếc máy hát đĩa phát ra làm Lepine nổi quạu. Chân tay ngứa ngáy bứt rứt của kẻ hút á phiện bắt đầu làm gã nổi cơn thèm thuốc. Gã trả lời với giọng lạnh nhạt:
- Suốt tháng vừa qua tôi ở vùng đảo Thái Bình Dương, bận quan sát những đồn điền tại đó.
Tên Corse khịt khịt mũi khinh miệt:
- Cách đây hai tuần có một cuộc nổi loạn tập thể. Bọn cai phát hiện được một âm mưu tổ chức đình công bị xúi giục bởi tụi Bôn-sê-vich và các phần tử thuộc cái gì đó gọi là “Việt Nam Quốc Dân Đảng”. Kết quả, sáu thằng cu-li bị bị cùm bằng xích sắt. Tôi có thể nói với anh rằng bọn cai của tôi ở đây thính mũi lắm. Hơi nghi ngờ có tí lộn xộn nào là tôi tống cổ bọn xách động vô Ngả Ba Ông Đồn liền, treo ngược hai cái chân vàng khè lên cho bọn chúng mất đất bám trụ.
Nói xong, Duclos mỉm miệng cười gượng, hy vọng thuyết phục nổi Lepine chia sẻ lối khôi hài đen của hắn:
- Auguste ạ, trong chuyến hàng hôm nay anh có mang tên cộng sản Quốc Tế Đệ Tam nào tới nằm vùng ở đây không đấy?
Gã mộ phu quạu quọ trả lời:
- Duclos này, chỉ nội cái việc kiếm cho đủ số cu-li để đem vô đây cho anh cũng đủ nhức đầu rồi. Tôi không thể bảo đảm với anh rằng chúng có lý lịch sạch sẽ theo cái kiểu anh muốn.
Vừa lúc đó cửa mở ra và đi vào người “con gái” An Nam chân trần, trên tay mang chai sâm-banh ướp lạnh mới khui hiệu Perrier-Jouet. Cô từ tốn rót đầy ly của Duclos rồi thầm lặng lui về phía cửa. Khi nâng ly lên uống, Duclos ngó Lepine với tia nhìn đầy ý nghĩa, nhướng nhướng đôi lông mày của hắn về hướng cô gái vừa đi ra. Lepine hạ ánh mắt xuống:
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:55 AM
- Con đó châm dọc tẩu được chứ?
- Dứt khoát là được.
- Thế thì tôi chỉ đòi hỏi nó làm mỗi một việc đó thôi.
Gã mộ phu thận trọng nói ra lời ấy một cách đầy toan tính, mắt vẫn nhìn chăm chú bọt trong ly sâm-banh mình. Liền đó, gã thêm:
- Theo như tôi hiểu thật chính xác thì anh không giữ cậu “bồi” nào trong nhà mình, đúng không?
Trong một giây, Duclos có vẻ hoang mang. Khi hiểu ra chuyện, hắn nổi sùng, nói cộc lốc:
- Tôi cóc cần có thằng “bồi” nào trong nhà tôi. Đó không phải là một trong các thói xấu của tôi.
Giọng vẫn tự tin, gã mộ phu nói liền một mạch:
- Thật sao, Duclos, anh làm tôi ngạc nhiên đấy. Cũng đáng để mình cân nhắc chuyện lúc này ai chủ động việc cung cấp cu-li cho các người. Tôi có khuynh hướng ưu tiên nhớ tới lời thỉnh cầu của đồn điền nào mà mỗi lần tôi ghé qua, người ta biết lo liệu cung ứng cho tôi sự tiếp đãi chu đáo nhất.
Đôi mắt của Duclos hơi khép lại khi hắn ghi nhận ý nghĩa hăm dọa không chút che đậy trong lời vừa nói của gã mộ phu. Rồi hắn rặn ra trên môi một tiếng cười:
- Tôi là người của bá tánh mà, ông bạn Auguste! Tôi bảo đảm rằng chúng tôi có thể tìm ra một sinh vật trẻ trung và xinh đẹp cho anh.
Cách đó khoảng tám trăm thước, ngay mé bên kia của đồn điền, trong khu vực có vòng rào vây kín và lênh láng nước mưa, Đồng với Học vẫn không nín nổi tiếng khóc khi hai anh em đeo sát cha trong bóng tối nhà lán mái dột vách thưa. Nằm quấn vào nhau trên nền đất ướt nhẹp, Ngô văn Lộc và hai con sung sướng ủ ấm nhau trong một lúc thật lâu, không ai nói với ai lời nào. Đồng mở lớn mắt lên nhìn nhưng trong bóng tối cậu chỉ thấy lờ mờ đôi nét quen thuộc trên khuôn mặt cha. Sau cùng, cậu lên tiếng, nói trong nước mắt:
- Làm sao cha tìm ra chúng con vậy cha?
- Việt Nam Quốc Dân Đảng giúp cho cha lần theo dấu vết của các con.
- Đảng đó là cái gì vậy cha?
- Đó là một hội kín có tổ chức trên cả nước, khắp nam trung bắc. Đảng đó mới được thành lập bởi những người còn trẻ và học giỏi, yêu nước và yêu dân tộc. Nó hoạt động để giải phóng đồng bào đất nước thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp!
Ngô văn Lộc dừng một chút rồi nói tiếp với giọng có phần trách móc:
- Nói cho cha biết, tại làm sao hai đứa con lại tới đây làm phu cạo mủ?
Hai anh em nhích sát vào nhau hơn. Rồi Đồng lúng búng kể:
- Sau khi bỏ nhà trốn đi, chúng con ra tới Đà Nẵng. Ở ngoài đó, chúng con gặp thằng Tây mộ phu, cái thằng hồi chiều tới đây theo đoàn xe tải chở cha đó. Hắn với một tên cai An Nam lừa phỉnh chúng con. Hắn cho hai đứa con, mỗi đứa ba đồng, nói đó là tiền ứng trước để làm việc trong một đồn điền cao su phía trên Quảng Nam. Bọn nó nói chúng con chỉ làm việc mỗi ngày sáu giờ, lãnh tới tám hào một ngày. Lại còn hứa cho nhà ở đàng hoàng, ăn uống đầy đủ. Mộ xong, bọn nó chất chúng con lên xe tải chở trâu bò chở tuốt vô đây. Ai tìm cách bỏ trốn thì bị đánh đập thê thảm.
Nhớ lại những gian nan vừa qua, giọng Đồng đẫm nước mắt:
- Hai đứa con đã ra sức trốn hai lần nhưng lần nào cũng bị bắt lại, rồi bị đánh đập, bị biệt giam. Chúng con còn cố viết cho cha mấy bức thư — nhưng bị bọn cai tịch thu hết, đem đốt...
Chung quanh ba cha con, các cu-li bị trừng phạt hồi chiều lúc này rên rỉ và âm ỉ khóc trong giấc ngủ. Những người khác ngáy như cưa gỗ trong khi nước mưa dội ào ào không ngớt lên mái lá cọ mỏng manh trên đầu họ.
- Tại sao trước đó các con rủ rê nhau bỏ cha bỏ mẹ, trốn khỏi trại săn?
Hai anh em tần ngần ngó nhau rồi nhỏm dậy. Chúng lùi người ra khỏi mép chiếu, ngồi bó gối trên nền nhà ướt đẩm, không trả lời. Người cha lại hỏi, với giọng nhẹ nhàng hơn:
- Tại sao, Đồng, con làm như vậy là có ý gì vậy?
Sau một hồi lâu im lặng Đồng mới chịu mở miệng:
- Cha ơi, chúng con xấu hổ chịu không xiết.
- Xấu hổ? Mà con xấu hổ chuyện gì vậy?
Trong giọng nói của Ngô văn Lộc có chút nghẹn ngào như gợi cho thấy anh có thể mường tượng câu trả lời ra sao, và anh đang sợ. Câu trả lời của Đồng gần như thì thào, nghe như hụt hơi:
- Xấu hổ về chuyện xảy ra đó... Chúng con quá tủi quá đau, vừa hận vừa tức việc mẹ đã làm... cả cha cũng biết việc đó mà.
Lộc nức lên thành tiếng than chua xót:
- Thiệt tình! Lúc đó cha nghĩ hai đứa con còn quá nhỏ dại, không thể nào hiểu nổi chuyện của người lớn! Cha định để sau này sẽ tìm cách giải thích.
Nói tới đây giọng anh trở thành rên rỉ:
- Nhưng bây giờ thì trễ quá rồi!
Học hốt hoảng nhào tới, bíu cánh tay cha:
- Tại sao cha nói là trễ quá rồi?
- Bởi vì lúc này, cha chỉ còn biết van vái hương hồn ông bà tổ tiên thấu hiểu cho cha, tha tội cho cha thôi…
Sự tuyệt vọng trong giọng nói của cha bất chợt truyền qua hai anh em một nỗi chua xót và cay đắng. Đồng hỏi:
- Cha nói vậy nghĩa là làm sao? Mẹ của chúng con đâu? Tại sao cha để mẹ ở nhà một mình mà tới đây?
Trong bóng tối, Ngô văn Lộc trườn người qua nắm thật chặt tay của hai con trai trong lòng bàn tay mình:
- Mẹ các con không còn ở trên đời này nữa!
- Có phải cha nói mẹ chúng con chết rồi? — hai anh em kinh hoàng hỏi lại.
- Phải. Mẹ các con chết hai tháng nay rồi. Chết trong nhà tù.
- Tại sao mẹ chết, lại chết trong nhà tù?
Lộc do dự rồi hít vào một hơi thật sâu:
- Cha với mẹ thu lượm tin tức cho nhiều hội kín cách mạng về những công tác mật thằng Devraux làm cho Liêm Phóng Tây. Cha thường theo hắn qua Tàu qua Xiêm để lái xe cho hắn khi hắn đi điều tra các hoạt động của những nhà cách mạng lưu vong của chúng ta. Tới khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập hai năm trước đây, cha với mẹ bí mật gia nhập Kỳ bộ miền nam và được phân công tiếp tục do thám thằng Devraux...
Giọng người cha xúc động nức lên rồi lắng xuống thành tiếng thì thầm:
- Đó là lý do tại sao mẹ các con buộc lòng cứ phải làm cái việc đó — để cho thằng Devraux không nghi ngờ gì cả. Mẹ rất chán ghét việc đó! Cha cũng oán hận việc đó! Nó không thường xảy ra, nhưng hễ nó xảy ra thì cha với mẹ đều cố không nghĩ ngợi không thắc mắc về việc đó nữa — để chỉ đinh ninh một điều rằng mình đang hết lòng đấu tranh cho độc lập tự do của đồng bào đất nước.
Học dụi mặt vào vai anh, bắt đầu khóc thầm lặng. Trong một lúc thật lâu, bên trong nhà lán chỉ còn nghe nhịp điệu điên cuồng của cơn bão và tiếng rên rỉ của những con người mệt lả chung quanh ba cha con. Rồi Đồng nghẹn ngào hỏi:
- Nhưng cha ở đâu mà để cho người ta bắt được mẹ?
- Lúc đó cha có việc phải đi xa vài ngày. Trong khi cha không ở nhàø, mẹ thấy có mấy tờ giấy trên bàn làm việc của thằng Devraux. Mẹ lấy đem giấu nơi nhà ở của mình vì nghĩ mấy tờ giấy đó có thể có ích cho đảng, nhưng chẳng may bị thằng Devraux tìm ra. Hắn bắt mẹ các con nhốt vô tù. Đảng báo động cho cha đừng về lại nhà đó nữa.
Lộc ngừng nói và thêm lần nữa, nghiến chặt hai hàm răng, hít mạnh để nuốt cơn xúc động:
- Một tháng sau, cha nghe tin mẹ từ trần. Bọn Tây nói mẹ các con chẳng may qua đời vì trúng gió mà chết! Nhưng một thằng cai tù ăn tiền kể cho cha biết mẹ bị tra khảo tới chết! Bọn Tây rất e sợ Việt Nam Quốc Dân Đảng và các tổ chức chống Pháp nên chúng dùng điện tra khảo bất cứ người tình nghi nào chúng bắt được.
- Chính hắn, thằng Devraux, chính hắn giết mẹ tôi!
Đồng nghiến răng, gằn từng tiếng trong cổ họng và kéo đứa em đang khóc rấm rứt vào sát người mình hơn. Hai anh em ôm lấy nhau, cùng lịm người trong côi cút, đau đớn và thương tiếc. Đồng thời hai hàm răng siết lại như cắn chặt cơn thù hận, không để tiếng khóc thoát ra ngoài lồng ngực.
Một lúc sau, cánh cửa đầu kia nhà lán bật mở và tiếng gào thét của cơn bão thình lình ập vào. Ánh đèn pin quét lui quét tới trên các thân hình cu-li đang nằm co quắp ngủ. Trong tấm vải nhựa che mưa sủng nước màu đen, hình dáng đồ sộ của Duclos lần mò đi dọc giữa nhà lán. Luồng ánh sáng chửng lại trên hai anh em Đồng và Học. Sau một chút lưỡng lự, Duclos cúi xuống, túm cánh tay Học. Hắn gần như nhấc bổng cậu bé đang khóc thút thít lên sát đầu gối mình:
- Nào lẹ lên, cậu bé đẹp trai dễ thương, mầy đi với tao! Đây không phải lúc ngủ. Có chỗ cho mầy làm việc thêm tối nay.
Trên hiên nhà của quản đốc đồn điền, Auguste đứng dưới mái hiên ngắm mưa bằng hai con mắt lim dim say á phiện. Khi thấy Duclos băng ngang khu nhà ở, soãi bước trở về, tay lôi theo một cậu bé An Nam, gã mộ phu âm trầm mỉm cười với mình, đầu gật gù. Rồi gã vội vàng bước trở vô phòng ngủ, bắt đầu lần tay lên hàng nút áo sơ mi lụa.

Trăng Huyết(2)

Trần Văn Hiếu nói với các con bằng tiếng Pháp:
- Đây là Joseph Sherman. Phụ thân cậu là một quan khách rất quí, đến từ Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ và đang thăm viếng nước ta. Đó là một nước quan trọng, ở cách đây rất xa, thẳng phía bên kia biển.
Nhớ lại sự hiểu lầm hồi nãy Joseph buông xuôi hai tay, giữ chúng ép sát hai bên hông. Mở miệng cười thật rộng, cậu khó nhọc gập người xuống, chào từng đứa bằng tiếng Pháp:
- Rất vui được làm quen với các bạn.
Người An Nam lần lượt chỉ vào các con, bắt đầu từ cậu bé cao nhất:
- Con trai tôi, Tâm, mười hai tuổi. Kim, em nó, mười một. Và con gái tôi, Lan, chỉ mới mười tuổi.
Khuôn mặt nhỏ và mịn màng của cô bé rất thanh tú và cân đối, hứa hẹn chẳng bao lâu sau sẽ trổ hoa thành một nhan sắc ít ra cũng nổi bật không kém gì mẹ. Nhằm trêu cho cô bé cười, Joseph làm bộ nháy một bên mắt. Nhưng điệu bộ ấy chỉ khiến cô bé nép sát hơn vào mẹ và tiếp tục nghiêm trang chăm chú nhìn lại cậu với đôi mắt thơ ngây tọc mạch, không chút rụt rè.
Hai người anh của cô bé vẻ mặt thông minh và tinh nghịch. Chúng hết xô lấn nhau lại cười khúc khích, chẳng đứng yên lâu một chỗ. Joseph để ý thấy cậu bé thứ nhì khoanh hai tay thật cao trên lồng ngực nhỏ nhắn và cứ giữ chúng nằm yên một chỗ. Nhìn gần hơn, Joseph thấy có vật gì nho nhỏ phồng lên, nhúc nhích bên dưới, làm nhíu chỗ áo lụa trước ngực. Nửa đùa nửa thật cậu bé Mỹ vừa quì xuống chỉ vào chỗ lồi lên và đang ngọ nguậy vừa hỏi:
- Kim ơi, cậu đang giấu cái gì thú vị trong áo thế?
Cả hai cậu bé lập tức cất tiếng cười gượng gạo. Tâm mặt ngượng nghịu chạy tới bên Trần Văn Hiếu, nói nhỏ vào tai cha bằng tiếng Pháp:
- Papa! Kim mang theo con khỉ con của Lan. Con đã bảo nó đừng mang, nó cứ không nghe.
Vị quan An Nam liền quở trách cậu con thứ bằng tiếng bản xứ liến thoắng. Lập tức, tiếng cười khúc khích bặt hẳn. Kim mở nút áo cài dọc bên nách. Khi chiếc đầu run rẩy của chú khỉ nhỏ thò ra, Lan bật lên tiếng kêu khe khẻ phản đối rồi dịu dàng đưa tay ôm con vật nhỏ nhắn vào lòng mình. Joseph nói thật nhẹ nhàng và chúi người về phía Lan:
- Cho tôi sờ vào nó một cái, được không Lan?
Không hiểu rõ cậu bé Mỹ muốn làm gì, Lan rụt người lại đề phòng. Con khỉ, cảm giác được sự e ngại của chủ, cất tiếng kêu khèn khẹt và vùng vằng trong hai cánh tay của cô chủ nhỏ.
Áy náy không muốn làm mất lòng Lan, Joseph khoát tay, bước lùi. Nhưng con khỉ nhỏ vốn sợ hãi sẵn, bỗng hốt hoảng vì cử chỉ đột ngột ấy của người lạ, nó quẩy mạnh vọt khỏi tay Lan. Tâm và Kim ré lên cười háo hức, rượt cho con vật chạy lòng vòng trên tầng cấp khiến nó lại càng sợ hãi thêm. Để thoát khỏi các cậu, con khỉ phóng thật nhanh qua khung cửa lớn đang mở sẵn, chạy thẳng vào “cung điện”. Trần Văn Hiếu và vợ hết hồn ngó nhau còn hai cậu con chửng lại nơi ngưỡng cửa, im bặt, sửng người đứng yên. Khuôn mặt Lan kinh sợ tái mét. Môi run run, cô bé rùng mình đưa hai bàn tay nhỏ nhắn lên bíu hai gò má. Hai mắt Lan nhắm nghiền, chực trào nước mắt.
Cơn hãi hùng của cả nhà họ Trần làm Joseph như chôn chân tại chỗ. Rồi như để chuộc tội cử chỉ gây họa vừa rồi, cậu đánh liều lao mình qua ngưỡng cửa, rượt theo. Bên trong, con khỉ nhỏ trượt chân, dừng lại trên sàn nhà bóng láng đá cẩm thạch, trơ vơ giữa tiếng chuyện trò rôm rả của đám đông đang đứng thành từng nhóm. Joseph nhào tới con khỉ. Khi thấy cậu, nó lại kinh hãi hơn nữa, bắt đầu chạy lung tung, tìm cho ra một chỗ núp.
Thống đốc vừa đưa quí khách của mình đi khỏi cái đôn nơi ông trưng bày chiếc độc bình đời Minh, đặt dưới ánh đèn điện từ trên tỏa xuống để rọi cho hoa văn và nước men của nó đẹp lên gấp bội, Và vì mãi quay đầu về phía khách để giải thích một vấn đề nào đó, ông không thấy con khỉ nhỏ đang bò nhanh như chớp dưới sàn nhà trơn láng.
Ông chỉ nhận ra con khỉ khi nó chạy tới chân đế cẩm thạch của cái đôn rồi phóng lên, níu chặt cổ chiếc độc bình, đảo tròng mắt ngó bốn phía. Bàn tay đeo găng trắng toát của thống đốc đang hoa lên bỗng ngưng lại gữa chừng. Trong một giây, ông kinh hoàng nhìn chằm chặp con vật, nghe rõ từng tiếng nó kêu khèn khẹt. Rồi ông bắt đầu bước lẹ tới phía chân đế, thét lớn coi chừng. Như cảm giác được lời hăm dọa ấy, con khỉ vọt lên bên trên một chút rồi lẹ làng chui tuột vào trong độc bình.
Sợ hãi thêm vì bóng tối bên trong, con vật lăn lộn như điên, tìm cách thoát ra. Lúc này, chiếc độc bình lúc lắc đong đưa rồi nghiêng qua một bên, sắp đổ lăn xuống sàn nhà. Thấy mình cách quá xa, không kịp cứu bảo vật cực hiếm của mình, thống đốc chỉ còn cách tức ngược máu, bất lực đứng ngó chiếc độc bình sắp vỡ nát.
Vài người Pháp gần đó muốn nhào tới cứu nhưng không còn kịp. Cảm giác trách nhiệm về tai họa sắp ụp xuống và mặc cảm đắc tội làm tăng tốc lực cho đôi chân của Joseph. Cậu liều mạng lao hết sức nhanh tới chân đế cái đôn. Khi chiếc độc bình rơi xuống, Joseph chuồi người về phía nó với tư thế một vận động viên từ cầu ván chúi mình phóng xuống bể bơi. Ngực cậu đập uỵch xuống sàn nhà làm người mất thở nhưng cậu cố rướn hai tay lên đón chiếc độc bình. Đồng thời cậu đạp mạnh chân cho người lướt trên sàn cẩm thạch để nếu bàn tay có đón hụt, sẽ đưa nguyên đầu ra, hứng lấy món đồ sứ cổ đang lấp lánh nước men mịn màng. Khi hết đà, Joseph tưởng đã vuột mất chiếc độc bình nhưng vào chớp mắt cuối, cậu vặn mình lật ngửa người. Rồi với hai bàn tay, cậu tạ ơn trời rằng mình đã có được chiến lợi phẩm. Và cậu ôm chặt nó vào chiếc áo sơ-mi dạ vũ kiểu cách của mình.
Trong bầu khí im lặng như không gian sau cơn bão, Joseph cố nhịn đau. Cậu nghiêng mình ngồi dậy và đứng lên, từ trán xuống cổ vẫn một màu đỏ ửng. Cho tay vào cổ độc bình, Joseph túm gáy con khỉ lôi mạnh nó ra và thận trọng đặt lại bảo vật lên chiếc đôn. Không ngoái đầu nhìn người trong đại sảnh, cậu ôm chặt con vật ngộ phạm bằng cả hai tay, bước thẳng về phía khung cửa sổ kiểu Pháp.
Khoảnh khắc Joseph ra hành tới lang, đầu mé thềm cao bộ mặt căng thẳng của Trần Văn Hiếu và vợ dịu lại, nhẹ nhỏm. Hai cậu bé con họ đứng riêng cạnh người vú, mặt đầy vẻ hối hận, lấp lánh nước mắt. Còn cô bé Lan vỗ tay sung sướng chạy tới phía Joseph. Cậu bé Mỹ ngập ngừng xin lỗi bằng tiếng Pháp trong khi quì xuống một chân, trả lại cho cô bé con vật yêu quí lúc này vẫn còn run. Nhưng khi con vật nằm bình yên trong cánh tay mình, cô bé vội vàng quay lui, nép mình e lệ bên tà áo của mẹ. Miệng lẩm bẩm với con khỉ và không nói một tiếng với Joseph.
Vào lúc ấy, đằng sau Joseph, người sĩ quan tùy viên của thống đốc thầm lặng xuất hiện trên ngưỡng cửa. Liếc thấy gia đình Trần Văn Hiếu và con khỉ nhỏ, mặt anh ta sa sầm như có ý quở trách. Rồi anh ta nói chầm chậm bằng tiếng Pháp, rõ ràng có chủ tâm không để ý tới mấy người An Nam:
- Monsieur Joseph, thống đốc đang sẵn sàng để vào bàn tiệc với những khách quí đã được mời.
Joseph nán lại, mỉm cười xin lỗi thêm lần nữa và nhìn theo Trần Văn Hiếu cùng gia đình bước xuống thềm, rời dinh. Lan vừa đi vừa thầm thì dỗ dành con khỉ nhỏ nhưng vẻ mặt ngu ngơ ngỡ ngàng như thể mình không thể nào hiểu hết những gì vừa xảy ra. Ở cuối tầng cấp, cô bé dừng chân một chút, quay lui như ngó như chào Joseph. Cười tần ngần, cậu bé Mỹ vẫy tay. Nhưng cử chỉ ấy chỉ làm cô bé An Nam ngỡ ngàng thêm, rồi xoay mình chạy thật lẹ, bắt kịp cha và níu áo mẹ.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:03 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 6 -
Cơ sở chính thức của quan sứ thần tọa lạc bên một con đường rợp bóng cây thuộc khu vực Tân Định, phía bắc Nhà thờ Đức Bà. Phòng lớn nhất của ngôi nhà cho thấy rất ít bằng chứng về tài sản to lớn được dòng họ Trần tích lủy qua ba thế hệ hợp tác chặt chẽ với Pháp. Bên ngoài cửa sổ, các lùm bụi và cây ăn quả vùng nhiệt đới như mảng cầu, đu đủ, xoài tượng, lựu, vươn lên rậm rạp từ mặt đất ẩm bên trong khu vườn có tường thành bao quanh. Đồ đạc trong phòng thưa thớt, hợp truyền thống khắc khổ và hiếu học của giới quan lại An Nam. Nổi bật cuối phòng là bàn thờ gia tiên gồm ba chiếc tủ thờ sơn son thiếp vàng. Cái lớn nhất và cao nhất là tủ thờ chính, đặt ngay chính giữa. Sát hai bên tủ thờ chính là hai tủ thờ phụ, cao ngang nhau, trên mỗi cái đặt linh vị, hai ngọn đèn cầy, bát nhang và lư hương nhỏ. Trước mỗi bàn thờ phụ kê một chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt các lễ vật của thân nhân mang đến gồm cau, rượu, trà, vàng hương. Sau phần nghi lễ chính, họ sẽ lần lượt bái lạy trước bàn thờ trước khi cùng ngồi vào ăn giổ.
Trên mặt tủ thờ cao trưng bày hai bình bông huệ trắng mới hái, tươi nguyên, như còn long lanh sương sớm. Bốn cây đèn cầy màu đỏ cắm trên bốn chân đèn bằng đồng đánh bóng loáng. Giữa bàn thờ có một bát nhang bằng gỗ, trên cắm tua tủa chân nhang còn lại từ những lần thắp buổi sáng buổi chiều trong suốt tháng chạp này. Mé ngoài bát nhang là một lư đồng, khói lên nhè nhẹ, tỏa hương dìu dịu làm không khí mỗi lúc một thêm vẻ linh thiêng. Ngay trên bàn thờ chính, xếp hai khay gỗ bày đầy hoa quả, chất vun cao theo hình kim tự tháp, được hái từ những cây trái sum sê trong vườn. Kế bên khay hoa quả và sâu vào bên trong một chút là phần cúng cơm, gồm một bát cơm, một quả trứng. Cơm sới có ngọn trong cái chén đầy, úp lồng một cái chén khác làm thành bát cơm lồng. Trứng gà luộc bóc vỏ, ấn dẹt cho nứt ra, đặt trên dĩa với một ít muối hạt. Bên cạnh là ba chiếc ly nhỏ chưa rót rượu. và trầu cau têm sẵn.
Mé trước bàn thờ chính kê một chiếc bàn thấp, bày cổ cúng gồm những dĩa nhỏ chưng dọn thịt luộc, chả lụa và cá, kèm theo gỏi ngó sen và rau, các tô miến nấu đặc biệt có nấm và kim châm, hương vị đậm đà; xôi chè; cơm trắng, hai hàng chén đơm sẵn cơm có kèm theo các đôi đũa đặt ngay ngắn bên cạnh mỗi chén; mấy chiếc ly thủy tinh đựng rượu trắng hơi vơi một chút; mấy chiếc tách sứ để không và bình trà đã pha, sẵn sàng châm trà khi các hương linh thụ xong cổ, và chuẩn bị cho người chủ lễ vái ba lần sau cùng, hoàn tất phần nghi lễ. Ngay đằng trước mâm cổ cúng trải chiếc chiếu hoa cạp điều, dùng để bái lạy. Tuy thế, tâm điểm của bàn thờ là bức chân dung khung thiếp vàng của một vị quan trông rất khả kính, mình mặc triều phục, ngự chốn danh dự và cao nhất trên bàn thờ chính giữa.
Tất cả phẩm vật và cách thức trưng bày ấy không là sáng kiến cá biệt của dòng họ Trần. Số lượng nhiều hay ít tùy gia cảnh, nhưng nói chung, chúng được bày biện theo những qui định có tính truyền thống, làm thành phong tục của người An Nam về lễ giỗ. Đó là một nghi lễ được cử hành hằng năm và suốt đời, để tưởng nhớ ngày lìa trần của ông bà cha mẹ. Họ là những đấng sinh thành nên con cháu phải chịu tang trọn đời, khác với tang vợ tang chồng chỉ chịu ba năm. Không ai biết rõ phong tục và nghi thức ấy bắt đầu từ thời điểm nào trong lịch sử dân tộc, nhưng thực tế nó hiện hữu đã ngàn năm trên đất Việt.
Bắt đầu từ đồng bằng bắc bộ, cái nôi của dân tộc và văn hóa Việt, chúng theo chân đoàn lưu dân đi dọc Trường sơn vào các đèo cao và vùng đất sỏi đá miền trung. Rồi sau đó, chúng cùng đi với đoàn người khai phá vào phương nam, nơi gạo rất trắng nước rất trong, khí hậu thoáng mát, đồng ruộng cò bay thẳng cánh và mùa nước lên cá lội tràn bờ. Qua bao nhiêu thay đổi triều đại, thăng trầm với lịch sử, biến thái theo hoàn cảnh địa phương, dị biệt về lập trường chính trị hay giai tầng xã hội, người Việt khắp nơi vẫn tuân giữ và thực hiện những qui định căn bản trong phong tục tập quán ấy. Giới giàu sang phú quí thường cử hành lễ giỗ để vinh danh người chết và chiêu đãi kẻ sống. Hạng nghèo khổ cơ cực tới ngày giỗ ông bà cha mẹ cũng rán cúng chén cơm ly nước cây nhang mới khỏi tủi thân và ngủ yên giấc.
Hôm nay là ngày chính giỗ vị thượng quan cụ thân sinh của người An Nam mặt nhăn nheo, mặc áo bào vua ban chỉ may bằng một tấm vải được thượng nghị sĩ Sherman khéo lấy lòng một giờ trước đó.
Chiều hôm trước đã có lễ cúng tiên. Thường là để họ hàng thân thuộc đến nhóm họ, ở lại chầu chực gia tiên và chuẩn bị cho sáng sớm ngày mai bắt tay chuẩn bị cỗ bàn. Như thế, lễ giỗ ngoài mục đích tưởng niệm người đã khuất còn là dịp tụ họp để siết chặt tình gia tộc trong phúc ấm của ông bà tổ tiên, quấn quít thêm vòng sống của người Việt trong bốn vòng gia đình, thân tộc, làng xóm và dân tộc. Việc thực hiện nghi lễ này là một trong vô số cách để củng cố thêm văn hóa cùng tín ngưỡng của đại gia đình người Việt trong đó kẻ sống và người chết quần tụ bên nhau, hằng ngày hằng đêm tương tác cảm thông, vượt không gian và thời gian. Từ đó làm thành một cuộc sinh hoạt vừa chan chứa tình nghĩa vừa dồi dào tâm linh trong quân bình và hài hòa giữa con người với tổ tiên, có trời cao lồng lộng là cha nghiêm minh và đất thấp bao la là mẹ từ ái.
Đúng ra phần nghi lễ cúng giỗ theo truyền thống phải cử hành buổi trưa vào giờ chính ngọ. Nhưng đặc biệt lễ giỗ này hằng năm thường cử hành lúc hoàng hôn vì hôm trước giỗ là ngày 23 tháng Chạp, nhà nào cũng bận đưa ông táo về trời nên có một số người sáng nay mới từ lục tỉnh lên kịp. Thêm nữa, cũng vì phải tham dự buổi tiếp tân dành cho gia đình thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman tại dinh thống đốc nên vị thượng quan bộ Lễ quyết định cử hành vào buổi tối cho thong thả, để có thì giờ hành lễ trang trọng và ung dung thụ lộc với con cháu.
Khi trời bên ngoài bắt đầu sẩm tối, lão trượng Trần Văn Trung cất bước vào phòng. Ông mặc y bào thụng tế với hai tay áo dài, rộng thùng thình, may bằng lụa màu nhang khói. Trên đầu ông đội chiếc mũ mềm thêu chỉ màu, sụp xuống che một phần khuôn mặt. Lan và hai anh không thể thấy trọn vẹn bộ mặt của ông nội khi cả ba đi giữa cha và mẹ, theo chân ông bước qua ngưỡng cửa bằng đôi chân không mang giày hoặc dép. Các thân nhân khác lần lượt đi theo thành hàng dọc vào một chỗ khuất trong bóng tối. Ở đó, họ đứng có quy củ theo thứ bậc và theo nhóm nội ngoại, họ hàng gần rồi họ hàng xa, không phân biệt tuổi tác hay nam nữ.
Quan Tham tri bộ Lễ Trần Văn Lung bước tới gần bàn thờ. Ông cẩn thận kiểm soát lễ vật, cả số lượng đủ thiếu lẫn qui cách chưng bày. Xong ông đưa tay nhận cây nến nhỏ vừa được thắp sáng từ một thân nhân làm chấp sự. Kính cẩn cúi đầu trước bức chân dung của thân phụ, ông mồi nến vào từng tim đèn cầy cao màu đỏ đặt hai bên bức chân dung. Khi bốn ngọn lửa trên cao toả sáng khắp bàn thờ, ông bước vào giữa chiếc chiếu trải trước bàn thờ, lễ bốn lạy, rồi quỳ xuống, hai tay chấp lại, vòng lên ngang trán.
Dù tuổi cao chân yếu, vị lão quan phải lạy đúng theo truyền thống qui định. Đứng thẳng, chắp hai tay dơ cao lên ngang trán, khom mình cúi xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, quì gối bên phải rồi gối bên trái xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống sát hai bàn tay lúc này lật ngửa trên mặt chiếu, gọi là thế phủ phục. Sau đó, ông cất đầu và thẳng lưng đồng thời co hai tay đã chắp lại trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy. Kế đó, ông đem hai bàn tay vẫn chấp xuống, tì vào đầu gối bên phải để đứng lên. Chân trái đang quì tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên.
Thấy ông lão đã lễ đủ bốn lạy, người chấp sự lấy ba nén hương châm lửa thắp, đưa cho ông. Trần Văn Lung cầm hương vái một vái dài rồi trao lại cho chấp sự cắm lên bát nhang. Kế đó, chấp sự mở nút bình rượu, rót vào ba cái chén nhỏ để trên bàn thờ. Chờ mọi sự cử hành đâu vào đó, vị thượng quan Bộ Lễ bắt đầu đọc lời lễ khấn bằng tiếng Hán Việt trong tờ sớ, đại ý:
“Nước Đại Nam, triều vua Đồng Khánh năm thứ chín, nhằm năm Giáp Tý, tháng chạp, ngày hai mươi tư, tại thành Gia Định. Con xin cùng với cả gia đình, và các con các cháu thành khẩn kính dâng lễ vật rượu, trầu, hoa quả, xôi, chè, cổ bàn, lên thân phụ là đấng sinh thành, tên húy là Trần Văn Soạn, tên thụy là Xuyên Vân, mất ngày hai mươi tư tháng chạp năm Mậu Tý, an táng ở cánh đồng Hòa Hưng. Hôm nay là ngày giỗ, với lòng thành xin kính dâng chút lễ bạc, cung thỉnh thân phụ *** xét lòng thành hâm hưởng, phù hộ cho con cháu cả nhà được mạnh giỏi, mọi sự tốt lành. Xin cung thỉnh ông bà tổ tiên tam đại tứ đại cùng hương linh thân tộc thượng hạ về cùng hưởng cúng lễ. Xin cung thỉnh hương linh tiền nhân liệt sĩ, dù văn dù võ, sống trung dũng chết anh hùng, không phân biệt địa phương, thời gian, địa vị, chính kiến và triều đại, cùng quần tụ về đây thượng hưởng.”
Tuy mới mười tuổi nhưng vì hầu như đã trải qua suốt ngày quan sát mẹ đôn đốc người nhà và thân nhân chuẩn bị làm cỗ, Lan biết rõ trên bàn thờ đang bày những thức ăn thức uống thuở sinh thời, vị thượng quan nội triều ấy thích thưởng thức nhất. Được cho phép phụ dọn cỗ cúng và chợt nhận ra rằng kèm theo các món cao lương mỹ vị kia là sáu cái chén với sáu đôi đũa, Lan hỏi mẹ tại sao như vậy. Và được mẹ thì thầm giải thích:
- Chúng ta cúng thêm thức ăn thức uống để cụ cố của con có thể mời mọc hương hồn của các nhà ái quốc và các nhà nho nổi tiếng khác cùng theo cụ về ăn cỗ.
- Thế có những hương hồn chưa từng gặp cụ cố ở Huế hay Sài Gòn thì sao hở mẹ?
- Con biết không, ở cõi bên kia người ta quen biết nhau hết và hiểu rất rõ bụng dạ nhau, ngay cả những vị lúc còn sống ở cõi bên này suốt đời chống đối nhau, lắm khi cầm quân ra trận rượt đuổi nhau mà đâm mà chém. Sống thì đường ai người ấy theo, chúa ai người ấy phò, chứ chết rồi là trả xong nợ đời, không còn lý do đối địch với nhau nữa. Con người chủ yếu là khí tiết và đạo nghĩa. Miễn sao khi sống trung thành với vua, yêu thương đồng bào đất nước và tận tụy với chức vụ của mình thì thôi. Hương linh nào cũng đáng tôn kính cả.
Lan vừa nhớ lại lời cắt nghĩa khó hiểu của mẹ vừa thấy mình đang ngó lom lom từng đôi đũa xem có đôi nào có vẻ nhúc nhích không. Mọi khi nghĩ tới việc hương hồn tổ tiên hiện về trong lễ giỗ, Lan và hai anh lại cảm thấy người rờn rợn. Cách riêng hôm nay, sau sự việc liên quan tới con khỉ nhỏ của Lan tại dinh thống đốc hồi chiều, cảm giác rờn rợn đó càng lúc càng lên tới cực điểm trong khi ba anh em run rẩy chờ đợi vì biết thế nào cũng sẽ bị cha quở phạt.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:04 AM
Qua lệnh của cha do mẹ truyền lại rằng ba anh em phải ở lại trước bàn thờ suốt từ đầu tới cuối thời gian tế lễ, cha đã tỏ dấu cho thấy ông vô cùng tức giận. Cả ba đều biết nghi lễ sẽ kéo dài khoảng nửa giờ — cho tới khi cây nhang độc nhất cắm trong bát gạo trắng trên bàn thờ tàn ngang mặt gạo. Mọi năm, khi ông nội vừa dứt lời thì thầm khấn nguyện, Lan và hai anh đều được phép ra chơi ngoài vườn cho tới khi chấm dứt phần cúng tế mới bị gọi vào. Lúc ấy, cỗ cúng trên bàn thờ được dọn xuống, đem bày chung với các dĩa thức ăn khác để cả họ cùng nhau ăn giỗ. Thêm một dấu hiệu khác nữa là cha vừa phán, cũng qua lời mẹ truyền, rằng ông muốn nói chuyện riêng với cả ba anh em trong thư phòng ngay khi vừa kết thúc phần nghi lễ.
Dù cha không để lộ dấu hiệu ông sẽ trừng phạt như thế nào, nhưng qua vẻ trầm trọng trên mặt ông, Lan và hai anh đều biết lần này, cha giận dữ hơn bao giờ hết. Mẹ đã báo động cho biết rằng khi nào tới lượt ba anh em khấn vái trước bàn thờ cụ cố, mỗi đứa phải lớn tiếng kêu cầu cụ tha tội. Với trí óc mười tuổi non nớt, Lan thường suy luận rằng hình như hễ mỗi lần trong ba anh em có người nào làm cha tức giận, tức là đã xúc phạm tới hương hồn của ông bà tổ tiên và làm tổn thương danh giá của gia tộc.
Đứng bên Lan, Kim đang cố che giấu cảm xúc. Nhưng qua vẻ mặt xanh xao và căng thẳng của anh, Lan có thể nhận ra Kim vừa lo lắng vừa bực bội. Trong các gia đình An Nam thuộc đẳng cấp của họ, việc chăm sóc nhà cửa và nuôi dạy con cái được giao phần lớn cho người mẹ. Tuy thế, cũng như hầu hết những người cha An Nam khác, Trần Văn Hiếu bao giờ cũng thủ sẵn một cây roi mây thật nhuyễn, cất trong chiếc tủ khảm xà cừ kê nơi phòng sách. Hễ khi nào cảm thấy cần thiết, ông đem ra dùng để góp phần cụ thể duy trì và củng cố thêm sức mạnh cho hai chữ hiếu thảo của Khổng giáo. Trước đây cây roi chưa bao giờ dùng tới ấy chỉ được ông đem ra phe phẩy dọa dẫm, nhưng lần này các con của ông đều hiểu rõ rằng sự việc Kim không vâng lời cha, xảy ra đành rành lúc xế chiều, đã đẩy ông vào tình thế bất lực và mất thể diện một cách quá sức tệ hại, ngay trước mặt mọi người.
Không giống Kim và Lan, Tâm thỉnh thoảng đưa con mắt đổ tội lấm lét liếc Kim, như có ý thanh minh với cha rằng mình không sai phạm chút nào vì đã cố hết sức ngăn em đừng làm chuyện điên rồ đó. Riêng Lan, cô bé hi vọng một cách tuyệt đối rằng mình sẽ được cứu xét là đương nhiên vô tội. Trong khi nhìn ông nội mấp máy đọc thì thầm lồi khẩn nguyện, Lan bắt đầu lặp đi lặp lại trong bụng những câu dự tính sẽ van vái với vong linh tổ tiên để cầu xin tha thứ.
Nguyện xong lời cung thỉnh thân phụ tôn kính cùng chư hương linh, vị lão quan đưa tờ sớ cho người chấp sự đốt. Ông cúi mình lễ nốt một nửa lạy nữa rồi đứng lên. Sau khi vái ba vái, ông lùi lại và bước ngang ra, đứng một bên, nhường chỗ cho con trai. Tới lượt Trần Văn Hiếu quì xuống. Ông im lặng, nghiêm trang cử hành những động tác y hệt thân phụ vừa làm, nhưng với vẻ cẩn trọng hơn. Sau khi sụp mình lạy xong lần thứ ba, ông vẫn tiếp tục quì. Trước sự kinh ngạc của các con, ông bắt đầu cao giọng khẩn nguyện, cực kỳ trang trọng, nghe vang rõ từng tiếng trong tai mỗi đứa con:
- Kính bẩm nội tổ, trước hết và trên hết, con xin thành tâm kính cẩn thỉnh cầu nội tổ cùng ông bà tổ tiên phù trợ cho hết thảy con cháu luôn luôn khắc ghi trong tâm khảm lời giáo huấn của Đức Khổng tử, đấng thánh hiền vĩ đại. Suốt hàng ngàn năm nay, ngài vẫn không ngừng nhắc nhở hậu thế bổn phận của con cháu đối với ông bà tổ tiên và cha mẹ, đối với đức vua và hết thảy các bậc quan quyền được đặt định lên trên chúng con. Con cũng xin kính cẩn khẩn cầu cho hết thảy các con các cháu được càng ngày càng ăn ở với nhau đầy phúc đức và thêm gắn bó, cũng như sống mật thiết hoà hợp với các sức mạnh vĩ đại của tự nhiên, với đất trời chung quanh, với thế giới bên kia của các hương linh, để nội tổ cùng chư vị ông bà tổ tiên có thể tiếp tục an hưởng giữa các con các cháu. Nếu chúng con không chu toàn bổn phận trong gia đình và ngoài xã hội của mình, chúng con biết rằng chẳng sớm thì muộn, chắc chắn chúng con sẽ đánh mất sự phù hộ của hương hồn tổ tiên và của mọi hương hồn tiền nhân liệt sĩ trung dũng anh linh trên đất nước chúng con...
Kim cắn môi ngó xuống sàn nhà trong khi cha đưa mắt nghiêm nghị nhìn về phía ba anh em với ánh mắt nhiều ý nghĩa. Dưới tia nhìn sắc bén như dao vàø định tĩnh như mặt nước hồ ấy, Tâm và Lan cảm thấy bứt rứt ngứa ngáy khắp người. Suốt thời gian hành lễ của cha rồi tới mẹ, tia mắt ấy quyện chặt, bám riết ba anh em. Thấy vợ hành lễ xong, Trần Văn Hiếu đưa tay vẫy Tâm bước lên trước vì cậu là trưởng nam và là đích tôn. Từ cuối phòng, cậu bé mười hai tuổi lẹ làng chạy lên, lật đật sấp mặt xuống chiếc chiếu trãi trước bàn thờ. Tâm lẩm bẩm thành tiếng với hi vọng cha và ông nội dù đứng cách xa mấy bước cũng có thể nghe rõ từng lời lẽ quyết liệt của cậu:
- Cố ơi, cháu lạy cố, cháu xin cố biết cho cháu rằng cháu đã cố làm hết sức mình để ngăn cản thằng Kim đừng mang theo trong người nó con khỉ đó. Cháu lúc nào cũng tuyệt đối vâng lời cha cháu, không dám có một chút thắc mắc. Từ trước đến nay và ngay cả hôm nay, cháu hoàn toàn vâng lời cha cháu, không sai một mảy may không sót một giây phút. Cháu chỉ dám khẩn nài lên cố một điều thôi là xin cố phù hộ cho cháu được tiếp tục mãi mãi vâng lời cha của cháu.
Nói xong, Tâm chà đầu xuống thật sát mặt chiếu rồi hấp tấp chạy về chỗ, cẩn thận vừa giữ cho mình đừng lạc mắt nhìn Kim.
Lan sửng sốt khi thấy mình là em út lại được cha ra lệnh cho bước tới bàn thờ tiếp liền Tâm. Là em út, mọi khi Lan là kẻ lên sau chót nhưng qua việc bảo Lan lên trước Kim, rõ ràng cha đã lựa riêng Kim ra để đối xử cách riêng. Với hai bàn chân trần, Lan nhón gót đi thật nhẹ trên sàn gỗ bóng loáng, bước rón rén tới trước bàn thờ, rồi nhẫn nhục cúi mình, đưa hai bàn tay lên ôm lấy đầu. Lan thì thầm khấn vái trong khi nhắm nghiền hai mắt, như thể đang vận động thêm sức mạnh siêu nhiên hỗ trợ lời cầu xin của mình:
- Cố ơi, xin cố đừng để cha cháu nổi giận với cháu vì việc anh cháu làm. Cố ơi, cháu chỉ muốn làm cha cháu vui lòng thôi. Cháu biết mình có tội về việc con khỉ cưng của cháu bị mang tới dinh quan thống đốc nhưng vì cháu là con gái, cháu đâu có thể cản nổi anh Kim cháu đừng làm chuyện chưa đúng. Xin cố phù hộ cho anh Kim cháu cư xử đúng ý của cha cháu hơn và đừng gây thêm chuyện rắc rối nữa.
Lan sụp xuống lạy trước bức chân dung của vị thượng quan quá cố, giữ mình không nhúc nhích trong vài giây để chứng tỏ cho hương hồn ông bà tổ tiên thấy rõ mình là một đứa cháu đang vô cùng hối hận. Khi đứng thẳng người lên bước về chỗ, cô bé cố ý cúi đầu thật thấp để mái tóc đen rủ xuống, che kín khuôn mặt, không cho ai thấy những giọt lệ ăn năn và lo sợ đang ứa đầy trong mắt.
Còn Kim, khi thấy cha vẫy tay ra hiệu bước lên, cậu chậm rãi đi tới trước bàn thờ, hai môi mím chặt thành một lằn ngang quả quyết. Kim đứng cúi đầu, úp mặt vào hai lòng bàn tay một hồi lâu, không vái lạy, không cầu xin khẩn nguyện. Kế đó, ngay trước khi ngẩng mặt lên về lại chỗ đứng của ba anh em, cậu đột nhiên nghiến chặt răng, thì thầm vừa đủ cho mình nghe, với giọng quyết liệt:
- Xin cố phù hộ cho cháu chịu đau nổi mà không khóc. Cháu chỉ xin có vậy thôi.
Suốt phần nghi lễ còn lại, từ cuối phòng nơi gia đình và thân nhân đứng tách biệt, ba anh em có thể nghe rõ từng đoạn trong bài giảng huấn của ông nội với những lời tràng giang đại hải ca ngợi công đức của nhị vị phụ mẫu quá cố. Cuối cùng, khi cây nhang trên bàn thờ tàn ngang mặt gạo, mẹ dẫn ba anh em vào phòng sách, xếp chúng đứng thành hàng ngang ngay phía trước án thư, đối diện với cây roi mây đặt sẵn trên mặt bàn.
Vừa đặt mình xuống ghế, Trần Văn Hiếu cất tiếng với giọng điềm đạm và nghiêm khắc:
- Hẳn cả ba anh em đều đã biết rằng thái độ của các con hồi xế chiều là mười phần bất kính đối với quan thống đốc Tây cũng như ngỗ nghịch đối với cha mẹ. Mặc dù biết rõ Kim chính là đầu mối của sự việc phiền nhiễu đó, cha vẫn không còn chọn lựa nào khác ngoài việc buộc lòng phải trừng phạt hết cả ba anh em.
Tâm xịu mặt. Lan cảm thấy nước mắt lại ứa ra. Còn Kim nghe rất rõ lời của cha nói nhưng không tỏ dấu hiệu xúc động nào.
- Tâm này, vì trách nhiệm của con về việc xảy ra đó không lớn bằng trách nhiệm của Kim nên con và em gái đi tới góc phòng đằng kia, quì một tiếng đồng hồ, úp mặt vô vách. Nếu suốt một giờ đó cả hai đứa giữ cho lưng mình thật thẳng, không đứa nào nhúc nhích, cha sẽ không bị phạt thêm. Trong khi quì, mỗi đứa hãy dùng thời gian đó để ngẫm nghĩ về thái độ đáng hổ thẹn của mình — và thề hứa với mình rằng nhất quyết từ nay về sau sẽ luôn luôn vâng lời cha.
Cậu con lớn và cô em út nhẹ người bước thật lẹ tới góc phòng. Vị quan đặt bàn tay xuống cây roi mây, ấn ấn ngón tay lên thân roi, lăn qua lăn lại một lúc rồi ngước mắt nhìn cậu con thứ. Kế đó, cũng vẫn giọng điềm đạm, Trần Văn Hiếu nói:
- Kim này, việc trừng phạt nặng hay nhẹ tùy thuộc câu trả lời của con có thành thật hay không. Điều trước tiên cha muốn biết tại sao con đem con khỉ tới dinh quan thống đốc trong khi con thừa biết rằng làm như vậy là ngỗ nghịch?
Trong một lúc lâu, cậu con thứ im lặng, bướng bỉnh, không nhìn cha. Cuối cùng vị quan đứng dậy, cầm roi mây lên và nói:
- Nếu con không chịu nói cho ta biết, ta sẽ đánh con không chút nương tay.
Kim vẫn không mở miệng. Nhưng khi cha đi vòng qua án thư tới đứng trước mặt cậu, Kim ngước lên nhìn vào mắt cha, nói một mạch:
- Con làm việc đó vì ở trường con học mấy thằng lớn tuổi hơn con tụi nó thách con! Tụi nó nói con khiếp sợ mấy ông chủ Tây mắt xanh mũi lỏ, không dám làm một việc như vậy. Con muốn tỏ ra cho tụi nó biết là con không sợ.
Mắt Trần Văn Hiếu rực lên, quai hàm săn lại nhưng giọng nói vẫn đều và rõ từng tiếng:
- Tại sao con cần tỏ ra cho chúng bạn biết là con không sợ? Con đã biết là con phải cư xử lễ độ và tôn kính quan thống đốc Tây cùng các quan chức của ngài, không kém gì đối với cha và ông nội của con. Họ là nhà cầm quyền đang cai quản chúng ta. Địa vị và tài sản của chúng ta hiện nay hoàn toàn tùy thuộc vào lòng tốt của họ.
Kim đáp trả ngay, tuôn ra một hơi, vẻ mặt cậu đang tái nhợt bỗng ửng đỏ:
- Ở trường học, mấy thằng lớn tuổi hơn con nói rằng chúng ta chẳng là cái thá gì cả, rằng chúng ta không hơn gì những con bù nhìn múa rối của bọn Tây! Người ta nói chúng ta bán linh hồn mình cho thực dân Pháp để đổi lấy những đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Sau lưng chúng ta, người ta gọi chúng ta là “quân ăn cướp có môn bài”.
Kim nói xong, cả căn phòng bỗng ngưng đọng. Trong tình trạng im bặt đó, Tâm và Lan đang úp mặt vào vách thình lình nghe cha hít vô một hơi, dài rợn người. Rồi giữa bầu không khí tịch mịch, tiếng rắc của cây roi mây vang lên, nghe như tiếng một phát súng lục nổ. Khi tiếng răng rắc ấy lặp lại lần nữa lần nữa rồi cứ thế, Lan nước mắt ràn rụa chảy ròng ròng đầm đìa hai má. Bên cạnh em gái, Tâm cứng người hãi hùng lắng tai chờ nghe chú em của mình cất tiếng rên rĩ.
Nhưng dù cây roi đều đặn đưa lên thật cao rồi quật xuống khủng khiếp, và tiếp tục vang lên tiếng sàn sạt kinh hoàng, người anh em của Tâm và Lan vẫn bằn bặt câm nín. Có lần Tâm liều lĩnh đưa mắt run sợ liếc nhìn lui. Cậu thấy Kim nằm dài người trên án thư, mặt trắng bệch, toàn thân từ đầu tới chân run bần bật. Mắt Kim nhắm nghiền, hai nắm tay bóp thật chặt như thể đang cố vận từng phân hơi sức gan lì cuối cùng của một cơ thể mới mười một tuổi để chịu đựng trận đòn khốc liệt của cha. Không khóc một tiếng, không than một lời.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:05 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 7 -
Vào sáng hôm sau cuộc tiếp tân của thống đốc, dưới ánh nắng sớm mai chói chang và trong trẻo, quãng đường dài năm cây số nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn rộn ràng với gần như không thiếu một loại xe cộ nào từng phục vụ loài người từ xưa tới nay. Được kéo bởi những chú ngựa nhỏ chân ngắn và bước nhẹ, bò thiến thấp lùn, con người ta gầy gò da vàng vọt mình mẩy ướt đẫm mồ hôi, hoặc bởi động cơ chạy bằng xăng, phun khói mù mịt, hay máy đốt bằng than chạy hơi nước, đám rước dài vô tận ấy gồm xe ngựa, xe bò, xe kéo tay, tàu điện, xe lửa, xe hơi và xe hàng. Chúng nườm nượp nối đuôi nhau hết vào lại ra, băng ngang cánh đồng buồn tẻ chỉ toàn những thửa ruộng không một bóng cây, để hối hả kết thúc công chuyện làm ăn của mình trước khi cái nóng ban trưa lùa khách đi đường đổ xô nhau tìm bóng râm và chỗ núp nắng.
Ngồi trên miếng ván kê đằng sau chiếc malabar — xe thổ mộ — nhỏ xíu do chú ngựa căm-bốt chân ngắn kéo, thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman một tay ngoéo vào quai móc quang gánh, một tay giữ điếu xì-gà trên miệng. Ông trầm ngâm bập bập mấy hơi thuốc trong khi quan sát quang cảnh sớm mai:
- Này Chuck, thật cũng đáng cho mình nhớ lại rằng nếu không có khả năng biết “cách-làm-như-thế-nào” của “lũ tây dương bạch quỉ” thì cho tới nay, con đường vào Chợ Lớn này vẫn chỉ là đường đất nhỏ dành cho xe kéo, không hơn không kém. Và lúc đó, loại động cơ duy nhất trên con đường đất đó hẳn cũng chỉ là những chiếc xe bò bản xứ thôi. Thậm chí cũng chưa chắc đã có ở đây cái thứ hộp diêm nhỏ xíu quái đản đặt trên bánh xe kiểu như thế này.
Trên sàn gỗ trong lòng xe, Chuck và Joseph ngồi trệt, khom lưng ngó sát mặt nhau. Mũ cối của hai anh em đụng lốp cốp lên trần xe cong vòng bằng gỗ. Bàn tay của mỗi cậu túm chặt một quai móc giày dép của khách đi xe. Mỗi lần hai bánh xe không ống nhún lăn trúng ổ gà trên mặt đường làm xe nẩy lên rồi dằn xuống, hất tung người lăn qua nghiêng lại, dộng bàn tọa xuống sàn xe, hai cậu ré lên cười và đua nhau la hét chí choé, giọng to gấp mấy lần đau.
Ba cha con vừa ra khỏi Khách sạn Continental chuẩn bị vào Chợ Lớn gặp Jacques và Paul Devraux để cùng nhau sắm cho đủ vật dụng đi săn, đã thấy một dãy malabar, được kéo tới xếp hàng dưới bóng cây trong công viên bên ngoài. Đây là loại xe do di dân người Ấn mang sang thuộc địa này, được người Sài Gòn đặt tên là thổ mộ — theo hình nấm mồ bằng đất — và người ta nói người Pháp gọi loại xe này một cách khinh miệt là “boite d’allumette: hộp diêm”. Thông thường chúng chỉ được những người An Nam nghèo hoặc dân buôn thúng bán bưng hay bạn hàng chợ dùng tới. Đột nhiên thượng nghị sĩ muốn gọi một chiếc để cùng đi với hai con vào Chợ Lớn gặp người Pháp.
Qua đám mây xanh nhạt mới toả lên bằng khói thuốc xì-gà giọng của Nathaniel tiếp tục:
- Bố có ý nói điều này, Chuck ạ, trong khi nhắc cho con nhớ rằng chính các nước giàu có và hùng mạnh thay phiên nhau kiểm soát thế giới. Bố cũng nghĩ rằng có thể mấy vết xước nơi đủng quần con lúc này dường như sẽ làm cho con ghi nhớ mãi mãi một điều khác cũng quan trọng không kém. Thịnh vượng và quyền lực cùng nắm tay nhau mà đi, tại quê nhà mình cũng như khắp mọi nơi trên thế giới rộng lớn mênh mông này. Những người xuất thân từ các dòng họ như dòng họ chúng ta luôn luôn cai trị nước Mỹ — và các xứ sở vĩ đại của châu Âu. Nhưng bố không muốn con vấp phải lỗi lầm mà người Pháp đang phạm ở đây. Hống hách và ngạo mạn là nhãn hiệu của họ, như con đã thấy tối qua tại dinh thống đốc. Thực tế, không một nhà chính trị Mỹ nào, đặc biệt nếu người ấy giàu có, tồn tại tới hai phút nếu hắn bị bắt gặp đang cư xử với dân chúng một cách khinh miệt như cách người Pháp đang đối xử tại đây. Ở quê nhà mình, chính đám dân chúng bình thường ấy bỏ phiếu đưa con lên nắm chính quyền, hãy nhớ điều đó — đừng bao giờ quên. Vì vậy, điều trước hết và trên hết là con hãy để cho mọi người thấy rằng con đứng về phía những người bình thường. Và cũng đừng bao giờ hãnh diện khi bị người ta nhìn thấy con đi bằng chiếc xe thổ mộ nhỏ xíu như thứ này thay vì đi bằng xe thùng dài, kiểu limousine. Dân chúng thích xe limousine — đặc biệt tại Miền Nam nước Mỹ. Cách người ta muốn ở đó là như thế. Nó làm cho họ cảm thấy họ gần gũi với con, và họ thích như thế.
Cười nhăn nhó, người Chuck nhún lên nhún xuống trên sàn ván:
- Con nghĩ rằng con sẽ chẳng bao giờ cảm thấy như vậy tại cái chỗ đang ngồi đây. Con chắc chắn trong một thời gian dài con sẽ không quên nổi chuyến đi xe thổ mộ này.
Rít mạnh điếu xì-gà, thượng nghị sĩ đưa mắt ngó đuôi điếu thuốc nóng rực. Ông ngước lên nhìn cậu con trai lớn với vẻ dò hỏi:
- Bố đoán là con đã nhận ra qua bài diễn văn tối qua của thống đốc, đúng không Chuck — toàn bộ lời lẽ đạo đức giả và cái gọi là sứ mạng khai hoá?
Chuck tần ngần trả lời:
- Có ạ, con có nghĩ như thế. Ông ấy vẽ ra một bức tranh toàn màu hồng, phải không bố? Nhưng con cũng nghĩ nếu họ xây dựng tốt đường lộ, đường sắt và vân vân, thì họ cũng có cái gì đó để đem ra khoe với chúng ta.
- Nhưng mục đích chủ yếu của việc xây dựng tất cả những đường lộ, đường sắt ấy là gì?
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:07 AM
Chuck phân vân, nhìn ra những con đường Chợ Lớn đông lúc nhúc mà xe thổ mộ của họ đang đi vào. Bên dưới các dãy cột im mát dựng lộ thiên trên vĩa hè, những người Hoa béo mập ở trần như những ông Địa, đang ngồi gẫy bàn toán đằng sau những đống cao ngất trái cây, thực phẩm, lụa, đồ sứ, hàng ngũ kim và cả tá các loại hàng hóa khác. Những chiếc xe bò lăn đôi bánh gỗ vào đám đông lũ lượt đi lại. Không khí nằng nặng mùi cá mắm hôi nồng nặc quyện với hương trà phương đông thơm ngát và mùi gia vị hăng hắc. Chuck đưa mắt miễn cưỡng quay ra sau nhìn cha. Cậu nói, giọng kéo dài, thiếu vẻ tự tin:
- Về việc họ cải tiến phương tiện giao thông, con nghĩ là...
Không khí trong xe im lặng ngột ngạt. Joseph rụt rè góp ý:
- Có phải là để... giúp cho chuyên chở cao su, than đá, lúa gạo và mọi thứ họ xuất cảng từ xứ thuộc địa này không? Việc có đường lộ, đường sắt thật ra làm lợi... cho người Pháp nhiều hơn cho người An Nam... phải không bố?
Thượng nghị sĩ gật đầu đồng ý với Joseph:
- Đúng vậy. Và tất cả những lời lẽ nói về dân An Nam siêng năng, tháo vát và tận tâm tận lực hợp tác với người Pháp chỉ đánh lừa được phần nào thôi. Ông lãnh sự Mỹ nói với bố rằng người Pháp vẫn còn cưỡng bách dân quê làm khổ dịch. Đàn ông nào còn mạnh khoẻ đều bị buộc phải làm việc nặng mỗi năm mười ngày không công như một loại thuế thân phải đóng. Chính những người ấy làm ra các đường lộ đường sắt và sông đào — làm sưu dịch không khác gì các nông nô phục vụ lãnh chúa của họ tại châu Âu thời Trung cổ.
Joseph ấm ức hỏi:
- Vậy tại sao tối qua, sau khi con vừa mới kể cho bố nghe những gì chúng con chứng kiến, bố lại nói rằng dân chúng trên đường phố Sài Gòn dường như mãn nguyện và hạnh phúc?
Thượng nghị sĩ quay sang con trai lớn, trả lời với nụ cười tự mãn:
- Chuck ạ, có lẽ con suy ra được việc đó, phải không? Một chút ngây thơ tròn xoe con mắt thì rất tốt trong việc ru cho những đối thủ của mình có cảm giác an toàn giả tạo. Tuy vậy, nếu con lắng nghe kỹ những gì bố nói tối qua, con sẽ thấy hầu hết các lời lẽ ấy đều có thể hiểu theo hai cách. Phần đông người ta lơi lỏng cảnh giác khi họ nghĩ rằng họ đang ứng xử với một người có đầu óc đơn giản — và nếu đằng sau thái độ ấy, con che giấu được cái quyết tâm sắt thép mà bố đã và đang nói lui nói tới như gõ trống bên tai con, con trai ạ, thì con sẽ đạt kết quả tốt.
Nói xong, ông chúi người tới trước, vỗ vỗ cánh tay Chuck để khích lệ trong khi người xà ích kềm xe thổ mộ lại bên ngoài ngôi chợ to nhất có mái che của Chợ Lớn.
Jacques Devraux và con trai đứng chờ sẵn bên một chiếc xe tải nhỏ loại chở hàng, đã chất đầy đủ các vật dụng đi săn vừa mua. Để các con đứng canh chừng, hai người đàn ông biến mất vào bên trong nhà lồng chợ Bình Tây mờ mờ tối để mặc cả mua thêm vài trăm cân muối và bột thạch tín dùng trong việc tẩy sạch, sấy khô và bảo quản da những con thú họ kỳ vọng sẽ bắn hạ. Bên lề vĩa hè, Joseph háo hức đứng quan sát đám đông.
Trên đường phố chật hẹp của Chợ Lớn, ít khi thấy người phương tây như các đại lộ ở Sài Gòn. Hầu hết các bộ mặt đều là người Hoa. Vài chiếc xe hơi bóng loáng của Pháp buông rèm kín mít dí mũi chạy dọc theo đường phố om sòm huyên náo, bên trong chở người Hoa béo phệ ngồi kế bên bà vợ trang sức đầy mình hoặc tì thiếp của họ. Âm thanh làm xàm, ngắt quãng và không chút du dương của phương ngữ Quảng Đông hoàn toàn thay thế âm thanh nói như huýt gió và êm nhẹ hơn của tiếng An Nam.
Choàng tay lên vai hai cậu trai Mỹ, Paul xoay cả hai hướng mặt về phía bên kia đường và nói nhỏ:
- Nhìn kìa! Hai vị có thấy mỹ nhân Trung Hoa với “nữ tì” nhỏ bé kia không?
Cậu chỉ vào vóc dáng khoan thai của một cô gái Trung Hoa đang nổi bật trong chiếc váy lụa thêu. Đám đông đi đằng trước cô gái tự động rẽ ra nhường lối khi cô chậm rãi bước dọc vĩa hè bên kia đường. Bộ mặt cô ửng hồng son phấn. Bên cạnh cô, một thiếu nữ nhỏ tuổi hơn bước đều chân, mặc quần áo vải trơn mộc mạc, tay đưa cao chiếc dù đang xoè cánh che ngay ngắn trên mái đầu thanh nhã của nữ chủ nhân.
Joseph hỏi, nhìn chòng chọc:
- Nữ tì là cái vậy?
Paul trả lời, trong giọng nói của cậu ám chút hơi hám dung tục:
- Là một cô bé nô lệ, có điều cô ta vẫn có thể rất quan trọng. Trong một cuộc hôn nhân có mặc cả trước, tân lang thường đòi cho bằng được tân nươngï mang theo về nhà chồng một nữ tì nhỏ tuổi và xinh đẹp, như một phần trong của hồi môn. Rồi nếu người vợ không làm cho hắn cảm thấy đủ hoan lạc, hắn có thể tự ý vui vầy thêm với cô bé nô lệ của bà ta.
- Và Paul này, anh có giấu một nữ tì nhỏ bé ở nơi nào đó không?
Cậu trai Pháp thở hắt:
- Chẳng may là không.
Vọt miệng nói với giọng trẻ ranh, Joseph ra sức lấp cho bằng khoảng trống đôi ba năm có vẻ như đang làm cậu cách biệt với thế giới tiếu lâm mặn của người lớn trong đó Paul và anh của cậu đang cười đùa vô cùng thoải mái:
- Cái gì, không con gái cũng chẳng nữ tì? Và các thiếu nữ An Nam trước đêm động phòng đều còn trinh cả, phải không? Vậy làm sao anh xoay xở nổi trên cõi thế gian này?
Mặt cậu trai Pháp bỗng loé lên vẻ bị sốc và bị xúc phạm. Cậu ưởn ngực phưởn bụng ra như có ý làm câm họng cậu bé Mỹ đang mặt đỏ bừng và mắt lỏ nhìn chòng chọc. Cuối cùng, trong hai con mắt của Paul lấp lánh ánh thú vị:
- Có nhiều cách, chú bé Joseph thân thiết của tôi ạ, tới độ ngay cả cái đầu óc táo bạo của cậu cũng không dám tưởng tượng. Vì rõ ràng cậu là một chú bé đam mê sôi nổi nên có lẽ tôi sẽ đích thân chứng minh cho cậu thấy những gì tôi có ý nói — không bao lâu nữa đâu, sớm hơn cậu tưởng đấy!
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:07 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 8 -
Ngàn vạn đóa hoa rực rỡ long lanh trong cỏ cây rậm rạp và lao xao hai bên đường như những ngọn nến màu da cam lấp lánh trên đầu khi chiếc xe mui cong hiệu Citroešn B-2 phơn phớt đen của Jacques Devraux lướt qua bóng râm của cầu Băng-ky, tìm đường quốc lộ chính ở hướng đông bắc, ra khỏi Sài Gòn. Jacques Devraux ngồi ở ghế trước, bên cạnh tài xế người An Nam, trong khi thượng nghị sĩ Sherman cùng hai con và Paul Devraux ngồi nơi băng sau. Flavia Sherman quyết định dùng trọn hôm nay đi mua sắm ở đường Catinat; sáng mai, bà sẽ ra sau để tham gia cuộc đi săn đầu tiên của họ. Với chiếc xe tải chở hành lý lăn bánh theo sau chừng năm mươi thước, họ đang trên đường tới khu giao lưu của sông Đồng Nai với sông La Ngà, cách Sài Gòn khoảng hơn trăm cây số, vùng Phương Lâm - Định Quán của Đồng Nai. Đó là nơi lũ trâu rừng hoang dã đặc sản của An Nam cùng những loài thú hiếm quí của Nam Á tự do đi lang thang khắp vùng đất trủng, chỗ rừng rậm tiếp giáp giữa cao nguyên miền trung với đồng bằng đông nam bộ.
Qua khỏi cầu Bình Lợi, con đường băng ngang một vùng mênh mông đồng ruộng thấp trủng với những đám dân quê An Nam hết cúi xuống lại ngửng lên trong bùn đặc quánh tới ngang bụng. Đi cấy mạ non, họ đội nón rộng vành, mặc quần áo bà ba đen y hệt nhau khiến những người Mỹ ngồi trong xe đang đưa mắt ngó ra không phân biệt nổi đàn bà với đàn ông. Những con trâu nhà ì ạch lê mình dưới các thửa ruộng ngập nước, kéo lết chiếc cày nhỏ bằng gỗ hoặc đằm mình nghỉ ngơi trong những vũng bùn sâu hơn, chỉ thò mũi và cặp sừng cong vòng hình mã tấu lên khỏi mặt nước.
Giữa Biên Hoà và Trảng Bom, từng đoàn người dân quê dài như bất tận mặc quần áo y hệt nhau, lũ lượt nhấc bàn chân trần đi dọc đường mương hoặc trên đường cái. Họ cử động theo một nhịp điệu không biết mệt, chẳng kém những người đang cày cấy dẻo dai dưới các thửa ruộng. Trong đôi quang gánh gác ngang vai, họ đựng mạ, gạo, trái cây, rau, chiếu và kể cả, như Joseph có lần thích thú chỉ chỏ, một cặp heo con còn sống, lăn lộn và kêu eng éc trong đôi rọ hai đầu đòn gánh. Cũng giống tại Sài Gòn, hầu hết trên miệng đàn ông lẫn đàn bà đều có vệt rỉ nước cốt trầu và vệ đường ở đây cũng lốm đốm nước trầu đỏ thắm.
Đưa tay lên vẫy về phía kính chắn gió, Jacques Devraux nói bằng tiếng Anh với vẻ khẳng định:
- Mặt trái của đồng tiền là đây. Tại Chợ Lớn, quí vị đã thấy các tay triệu phú người Tàu béo phệ sống ung dung. Họ dựng lên các nhà máy xay lúa và thuê tàu chở tới những thị trường cao giá nhất — rồi ngồi một chỗ hưởng lợi. Lũ dân quê An Nam nhẹ dạ nầy là kẻ làm hết thảy các công việc nặng nhọc dơ dáy để làm giàu cho bọn ba Tàu ấy. Đối với tôi, đôi khi Đông Dương có vẻ như một thuộc địa của Trung Hoa hoạt động vì lợi ích của những người Tàu Chợ Lớn phì lũ thông qua sự ưu đãi của người Pháp.
Giọng nói của người Pháp không mang chút dấu vết dí dỏm nào. Trong khi nói, bộ mặt phong trần rám nắng của hắn vẫn đậm lằn những nếp nhăn nghiêm nghị. Sự khắc nghiệt trong giọng điệu của Devraux làm bầu không khí trong xe trở nên im lặng nặng nề. Cảm nhận điều đó, Paul vội làm nhẹ bớt. Cậu vừa cười thành tiếng vừa nói:
- Thưa thượng nghị sĩ, người ta diễn tả bằng tiếng Pháp rằng người An Nam là “rizicultivateurs”— những kẻ canh tác lúa gạo, còn người Tàu là “usuricultivateurs” — những kẻ canh tác tiền cho vay nặng lãi! Thật rõ và thật gọn, phải không ạ?
Nathaniel mỉm cười, vỗ vỗ cánh tay cậu trai Pháp:
- Paul này, dù cậu có gọi họ là gì đi nữa, chắc chắn tôi chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện có một hay hai trăm người nhà quê này đến Virginia làm việc trong đồn điền của mình.
Nhìn ra ngoài cửa kính xe, ngắm từng đoàn dân quê linh hoạt đang xuôi ngược dọc theo đường xe chạy, ông nhận xét:
- Ngó như thể trong con người họ có chiếc máy vô hình nhỏ bé nào đó đang chạy đều, phải không? Họ hình như không bao giờ thôi bước.
Paul nói nghiêm chỉnh:
- Họ là người rất siêng năng cần cù. Trong cơ thể có vẻ ẻo lả của họ có một con số năng lượng thật đáng kinh ngạc.
Thượng nghị sĩ lịch sự dò hỏi:
- Như vậy tại sao họ không tự làm cho mình thoát khỏi cảnh lao động nặng nhọc ấy.
Không ngoái ra sau, Jacques Devraux bình thản nói:
- Dù có kiếm được tới mấy đi nữa rốt cuộc cũng chẳng thay đổi được gì. Bọn chúng nó lúc nào cũng mắc nợ. Rồi chúng lại phải đi tới tụi Chệt để vay nợ với mức lãi của kẻ cướp đường cướp chợ. Đôi khi tụi Tàu tính lãi tới ba mươi sáu phần trăm và bọn nhà quê này cũng khá điên rồ chịu chấp nhận cái giá cắt cổù đó. Thông thường, chủ nợ chỉ cho vay mười đồng thôi, và biết trước thế nào cũng sẽ xiết được mảnh đất cỏn con của con nợ cùng với nhà cửa của hắn — thậm chí có thể được luôn cả vợ với con gái của hắn — khi hắn không trả nổi nợ.
Paul phản đối sôi nổi:
- Nhưng ba ơi, chuyện đâu có hoàn toàn giống như thế. Theo như con thấy, từ trước tới nay, những người dân quê này lúc nào cũng bị ở trong hoàn cảnh khó khăn. Trước hết là chúng ta cướp đoạt đất đai của họ để ban phát cho những người An Nam hợp tác với chúng ta. Tới bây giờ, các địa chủ ấy trở thành kẻ biển lận, cho thuê ruộng và đòi giá cao — trong khi đó chúng ta tiếp tay bóc lột dân quê bằng việc thu các loại thuế tàn mạt. Họ hướng về ai đây nếu những địa chủ bản xứ và người Pháp chống lại họ.
Jacques Devraux không trả lời ngay. Joseph quan sát hắn thật kỹ, thấy bắp thịt quai hàm hắn săn lại trong khi hắn vẫn tiếp tục nhìn tới trước, qua kính chắn gió. Tới khi Devraux mở miệng, giọng hắn nặng chình chịch, nghe lạnh tanh:
- Paul này, con cần phải nhớ rằng dân An Nam lệ thuộc đế quốc Trung Hoa suốt cả ngàn năm. Chúng nó là một dân tộc dễ dàng cam chịu, không bao giờ chống cự nổi sự bóc lột. Cái đó nằm trong bản chất của chúng. Ai cũng có thể bóc lột chúng. Hình như chúng không thể sống thiếu cái đó. Nếu chúng ta không biến xứ sở này thành thuộc địa của Pháp thì lúc đó, nước khác cũng sẽ...
Đột nhiên chiếc xe giật mạnh khi tài xế đạp gấp chân thắng. Ngồi ngay sau lưng Jacques Devraux, Joseph nghe hắn thở hắt và chưỡi thề làm ràm. Ngước mắt, cậu bé Mỹ thấy một dân quê trên vai toòng teng quang gánh, băng vọt qua đường sát ngay đầu xe Citroešn, rồi nhảy cỡn, nhe răng cười đắc thắng. Khi xe chạy nhanh trở lại, Joseph ngoái nhìn lần nữa, thấy người nhà quê ấy tiếp tục nhảy, hoa chân múa tay, như thể nhập đồng cốt ngay giữa mặt lộ. Paul Devraux nói với giọng giải thích:
- Tôi e rằng quí vị phải làm quen với cảnh đó. Nó xảy ra rất thường.
Joseph hốt hoảng hỏi:
- Tại sao họ làm chuyện như vậy? Có phải họ muốn tự tử?
- Không hoàn toàn như vậy. Họ đang ra sức giết cho chết tà thần trong người họ đấy. Nhưng rủi thay, nhiều khi họ cũng giết luôn cả mình.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:09 AM
- Tà thần của họ là cái gì vậy?
- Các ác thần. Dân quê An Nam chiếm khoảng tám mươi phần trăm dân số; hết thảy đều thờ phượng các thần linh vô hình. Thần nhà, thần bếp, thần sông, thần cây... Trưa nay, khi vào rừng, thỉnh thoảng cậu sẽ thấy những đồ cúng nhỏ bằng thức ăn treo trên chạc cây. Quỉ thần của họ là hai vị thần được họ tin là sống trong cái bóng của họ. Một thần thiện với một thần ác. Thần ác, còn gọi là tà thần, cám dỗ đưa dẫn họ tới sa ngã. Họ tin rằng cách độc nhất có thể trục tà thần là kéo nó tới sát sự nguy hiểm. Ngay sau lúc bản thân họ suýt chết vì cái bóng của họ bị xe đụng hoặc bị trâu húc, họ tin rằng thần ác đang sống trong cái bóng của họ vừa bị tiêu diệt. Đó là lý do tại sao người dân quê ấy sung sướng nhảy múa giữa đường cái — chúng ta vừa giết cái bóng ác của hắn. Chuyện đó rất thường xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm vì sắp tới ngày Tết, lễ hội mừng năm mới âm lịch. Người ta muốn bắt đầu một năm mới mà không có ác thần nào ám hại mình.
Xe chạy chậm dần khi tài xế An Nam thấy có một đám dân quê khác đang tụ tập bên vệ đường, cách chừng năm chục thước đằng trước. Từ ghế sau, cha con nhà Sherman nghe Jacques hít vào một hơi dài cáu kỉnh. Hắn nói cộc lốc với tài xế bằng tiếng Pháp:
- Này Lộc, đừng hễ thấy như thế là chạy chậm lại. Bằng không chúng ta sẽ chẳng bao giờ tới đích.
Người An Nam đạp chân ga, xe trở về tốc độ cũ. Xe không còn khựng lại khi có ba người nhà quê trẻ tuổi lao bộ mặt trắng bệch ra ngoài lộ. Joseph cảm thấy nín thở cho tới khi giữa đường chẳng còn ai.
Khi chiếc Citroešn chạy qua khỏi cánh đồng lúa đông người, bắt đầu leo dốc và vào vùng đồn điền cao su đất đỏ, Joseph quan sát nét mặt người tài xế trong kính chiếu hậu, cố đoán cảm xúc của anh ta. Cậu tự hỏi không biết Lộc có hiểu những gì Jacques Devraux nói hồi nãy bằng tiếng Anh về xứ sở của anh không. Nhưng qua bộ mặt thụ động và đôi mắt nhỏ ấy thật không thể nào dò nổi ý nghĩ của anh.
Giống nhiều người An Nam, vóc dáng bên ngoài của Lộc trông như một loại trẻ con khiến cậu bé Mỹ khó ước lượng tuổi tác. Joseph nghĩ, anh có thể ở khoảng đâu đó giữa hai mươi và bốn mươi tuổi. Jacques Devraux không màng tới chuyện giới thiệu Lộc với thượng nghị sĩ nhưng trong khi cha đi kiểm tra lần chót chiếc xe tải chở hành lý, Paul Devraux thân mật vỗ vai người tài xế, giới thiệu anh với họ:
- Ngô Văn Lộc, một người An Nam thiên tài, nhiều biến hóa và đa năng đa hiệu. “Bồi” trong nhà, “bồi” ngoài trại săn, tài xế, phụ giúp mọi việc, và là nhân vật không thể thiếu trong cái gia đình bé mọn Devraux.
Lộc cười khúc khích với vẻ bối rối rồi vội vàng bắt tay và chào hỏi họ bằng tiếng Pháp trước khi Devraux kịp quay lại xe. Dường như không có lý do khiến anh ta phải biết tiếng Anh, Joseph ngẫm nghĩ như vậy khi xe tiếp tục lăn bánh. Cậu kết luận trong đầu mình rằng người An Nam có hai con mắt đầy thuần phục này hẳn không hiểu cuộc đàm thoại vừa rồi.
Hết cây số này tới cây số khác, xe tiếp tục chạy qua các khu rừng cao su rợp bóng nơi những thân cây thẳng đứng với vết sẹo rạch xéo và chiếc chén sắt hứng mủ cây, trải dài bất tận theo những khoảng cách đều đặn hai bên đường. Các khu rừng cao su với hình dáng bề ngoài y hệt nhau, bạt ngàn trùng điệp trông như vô số đoàn quân đứng yên hết hàng hàng này tới lớp lớp khác khiến xe có vẻ như không đang di động. Bóng dáng ảm đạm và lặng lẽ của chúng càng lúc càng làm dịu không khí căng thẳng trong lòng xe Citroešn do việc suýt gặp tai nạn lúc nãy gây ra. Nhưng rồi khi xe phóng ra khỏi các khu rừng cao su, đổ xuôáng triền dốc đồi thoai thoải và sắp chạy ngang một làng khác, Joseph lại cứng người trên ghế.
Một đám khÁ Đông dân quê chen chúc chung quanh cái giếng làng đầy bùn để giặt quần áo và rửa ráy bằng thứ nước có màu bùn đen xam xám, đứng lấn ra nửa mặt lộ. Dù hầu hết đã tránh qua một bên khi thấy bóng xe chạy tới nhưng có bốn cậu bé lẹ làng lập thành một nhóm, ngang bướng đứng trụ lại giữa đường. Theo phản xạ, Ngô Văn Lộc nhấc chân khỏi bàn đạp ga. Nhưng Jacques Devraux hất bàn tay không lên, tỏ vẻ khiển trách. Chồm người sang đập đập nút còi xe ở chính giữa bánh tay lái, hắn gắt gỏng gầm gừ:
- Nếu cứ mỗi lần thế này mầy chạy chậm lại, chúng nó sẽ không bao giờ học được thói quen tránh đường cho ô-tô qua.
Khi xe chạy tới gần hơn, Joseph thấy rõ bộ mặt bèn bẹt quê mùa của bốn cậu bé An Nam. Chúng mở mắt tròn xoe, có vẻ e sợ nhưng rõ ràng chúng nhất định đứng trụ chân tại chỗ cho tới giây phút sau cùng. Trong kính chiếu hậu hiện rõ bộ mặt Jacques Devraux. Vẻ lạnh lùng không thoáng chút cảm xúc khi hắn miết cứng bàn tay trên nút còi xe đang kêu bing bing liên tục.
Lúc hai đèn xe to lớn mạ kền đằng trước đầu xe Citroešn chỉ cách bọn trẻ chưa tới hai thước, cậu bé thứ nhất phóng người qua rảnh nước bên vệ đường, hét lên chiến thắng và té xuống một vũng nước bẩn thỉu. Hai cậu kia trượt chân, dù kinh hoàng vẫn vọt được người nhảy qua quá cái chắn bùn phía bên phải xe. Ngược lại, cậu bé thứ tư, trượt chân khuỵu đầu gối, chỉ mới lồm cồm đứng lên đã bị càng xe táng trúng phía dưới bụng, nghe kêu một tiếng huỵch và chiếc xe rùng mạnh. Người cậu béù tung lên trời, dang chân dang tay bay vòng qua mui xe rồi rớt xuống đằng sau, nằm một đống, không nhúc nhích, trên con đường bụi bay mù mịt.
Ngô Văn Lộc nhả ga cho xe chạy chậm, chuẩn bị ngừng. Nhưng trước con mắt sửng sờ của ba cha con người Mỹ, Jacques Devraux ra hiệu anh tiếp tục cho xe chạy như chẳng xảy ra chuyện gì. Trong một hai giây người Pháp quan sát cảnh tượng đằng sau qua kính chiếu hậu, không quay đầu nhìn lui. Xoay ngược người trên ghế, Joseph và những người khác trong xe chằm chặp nhìn đám dân còn lại trong làng đang hốt hoảng chạy ra, bu kín nơi cậu bé vừa rớt xuống. Đám đông xô đẩy nhau đứng chật đường cái khiến chiếc xe tải chở hành lý đằng sau chạy chậm lại rồi dừng hẳn, không thể qua lọt.
Nathaniel Sherman hỏi với giọng điềm đạm:
- Monsieur Devraux này, ông không quành xe lại sao... Để ít ra cũng xem thằng bé ấy có còn sống không?
Devraux trả lời trầm tĩnh:
- Thưa thượng nghị sĩ, tôi không muốn người ta làm phiền ông. Vả lại, tôi biết chắc chắn chuyện này vẫn rất thường xảy ra ở đây.
- Nhưng không phải báo cáo tai nạn này với cảnh sát sao?
- Việc đó không cần. Hầu hết quan toà người Pháp sẽ phạt tài xế chịu tiền phí tổn đám ma — hai mươi lăm đồng nếu quả thật thằng bé đó chết. Và quan toà chỉ ra phán quyết đó khi ông ta thật sự bị buộc phải làm như thế. Đã có lời cảnh cáo lặp đi lặp lại nhiều lần cho lũ nhà quê là phải tránh xa đường ô-tô chạy. Chúng nó không bao giờ để vào tai lời cảnh cáo đó.
Hắn nhìn lướt qua kính chiếu hậu lần nữa rồi nói tiếp:
- Tài xế chiếc xe tải chở hành lý sẽ lo liệu chuyện này. Y là người An Nam.
Người Pháp thốt ra lời sau cùng đó với lối nói có ý bảo rằng hắn thấy mình không đồng ý thảo luận thêm về vấn đề này nữa. Thượng nghị sĩ im lặng trở lại. Joseph liếc Ngô Văn Lộc, nhưng dù đang bấu mười đầu ngón tay trắng bệch trên bánh lái, anh ta cũng chẳng có ý kiến. Và không người nào mở miệng trong suốt phần còn lại của cuộc hành trình.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:23 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 9 -
- Con không được cãi ba lần nữa trước mặt khách, dù đó là người Pháp hay người nước ngoài, nghe rõ chưa? Thái độ vừa rồi của con thật không thể tha thứ. Ba rất ngạc nhiên tại sao một đứa con trai có cả cha lẫn ông nội đều là quân nhân, lại tiêm nhiễm cái ý thức về lòng trung thành và nghĩa vụ một cách nghèo nàn đến thế.
Cầm cây thông nòng súng và ngồi thẳng người, chửng chạc, chắc nịch trên lưng ngựa, Jacques Devraux hạ lệnh cho con trai với giọng tuy nhỏ nhưng quyết liệt. Paul cắn môi trong khi lắc lư cỡi ngựa đi sát sau cha, men theo con đường mòn chạy ngoằn ngoèo qua bìa rừng thẳm bên sông La Ngà. Mặt Paul biến sắc tái nhợt vì lời khiển trách nghiệt ngã của cha, rồi hít vào một hơi thật dài trước khi trả lời. Cậu nói, giữ giọng thật thấp, không cho lọt tới tai của thượng nghị sĩ Sherman và hai con trai đang ngồi trên lưng ngựa, di chuyển hàng dọc theo sau cha con nhà Devraux:
- Papa ạ, ba không thể kỳ vọng bất cứ việc gì con cũng phải đồng ý với ba. Với lại, như vậy đâu có nghĩa là con không trung thành với ba.
Không nhìn con, Devraux ngó thẳng tới phía trước con đường mòn, với bộ mặt hằn nét khắc nghiệt. Hắn đáp:
- Có lẽ con sẽ học được ý nghĩa của hai tiếng vâng lời và kính trọng tại Trường Võ bị St. Cyr. Ba hy vọng như vậy. Nếu không học được điều đó, con sẽ không giữ được lâu chiếc mũ sĩ quan. Sau chuyến đi săn này với mấy người Mỹ, ba lại phải lên đường qua Quảng Đông. Con sẽ phải tự mình hướng đạo một nhóm viên chức Pháp muốn đi săn nai. Khi về lại đây, ba không muốn nghe người ta nói con đang rêu rao cái thứ tình cảm ba vừa nghe con phát biểu sáng nay.
Trong vài phút, Paul dong cương không nói, hờ hững nghe tiếng hót lanh lãnh của lũ chim nào đó trên vòm cây rừng nhiệt đới giăng mắc lộn xộn. Cậu có cảm giác rằng, trong im lặng cha đang đòi hỏi mình bày tỏ một vẻ hối hận nào đó. Nhưng hễ liếc thấy bộ mặt nghiêm nghị và quyết liệt của ông, cậu lại cảm thấy mình không thể mở miệng thốt lên lời xin lỗi nào. Cuối cùng, Paul hỏi bằng giọng nhẹ nhàng sau khi thêm lần nữa liếc chung quanh xem có bị ai nghe lén không:
- Có phải ba vẫn tiếp tục công tác cho mật thám? Chuyến đi sắp tới của ba có liên quan gì tới vụ ném tạc đạn Toàn quyền Đông Dương Merlin vừa rồi không vậy?
Người cha trả lời cộc cằn:
- Con thừa biết rằng ba không thể thảo luận với con về việc ba làm cho Nha Liêm Phóng.
Nói xong, Jacques lạnh lùng quay đầu và mắt nhìn thẳng con trai:
- Nhưng trong khi duy trì quan điểm đang hình thành cho mình đó có thể con cảm thấy rằng không nên có hành động nào đối với kẻ thù của nước Pháp.
Mặt thoáng ửng đỏ cậu trai Pháp nói thật khẻ:
- Papa ạ, con cũng tự hào về xứ sở mình như ba vậy. Nhưng nếu chúng ta hành xử ở đây theo cách khác, chắc chắn dân chúng An Nam không cần tới các phong trào chống đối và Liêm Phóng cũng không cần phải do thám người nào cả.
Ngửa bộ mặt từng trải lên, Jacques Devraux mỉa mai đáp lại:
- Đời sống không quá đơn giản như con nghĩ. Có những lực lượng bên ngoài ở Liên Sô và Trung Hoa đang ra sức xúi giục gây rối loạn cho chúng ta ở đây.
Hắn ngừng nói. Trong một thoáng, hắn nhìn con trai với vẻ tư lự:
- Nhưng Paul ạ, đừng tưởng rằng có chút vui thích hoặc mãn nguyện nào trong loại công tác đó. Bỏ ra hàng giờ theo dõi và chờ đợi rồi thông thường tới cuối cùng chẳng phát hiện được gì cả. Ba làm việc đó xuất phát từ ý thức nghĩa vụ — cho xứ sở của chúng ta. Còn riêng cho bản thân, ba chỉ thích đi săn — hoặc thích trở lại quân đội hơn.
Paul nhận ra trong giọng nói của cha phảng phất vẻ mệt mỏi. Trong giây lát chiếc mặt nạ khắc nghiệt rắn rỏi trên mặt cha cậu hình như chùng lại. Cậu nói thật nhanh:
- Papa, con xin lỗi. Con chẳng khôn ngoan chút nào.
Jacques Devraux tiếp tục thẳng người trên yên ngựa và không tỏ cho biết mình có nhận hay không lời xin lỗi miễn cưỡng ấy. Paul lại bắt đầu muốn được để yên khi nghe cha nói với giọng trầm hơn:
- Paul ạ, con đã biết việc má con qua đời làm ba đau đớn biết mấy. Nhưng đối với việc một người đàn ông có đứa con trai độc nhất quay lại chống mình thì cũng đau lòng không kém.
Cậu trai Pháp ngước nhìn cha thật nhanh nhưng trên bộ mặt vừa trầm ngâm ấy đã gắn trở lại chiếc mặt nạ vô cảm quen thuộc. Jacques lại sắc giọng:
- Bây giờ, cách tốt là con quành ngựa chạy lui kiểm tra mấy chiếc xe bò chở đồ đạc, để chắc chắn bọn Mọi không làm mất mát thứ gì. Và đi đoạn hậu cho tới khi chúng ta tới trại săn.
Joseph Sherman thấy Paul quành ngựa lại và bắt đầu cho ngựa chạy đều bước về phía mình. Cỡi ngựa đi đằng trước Chuck và cha, cậu chiêm ngưỡng thân hình thẳng đứng và tấm lưng thon của Jacques Devraux đang lắc lư khoan thai trên yên ngựa dẫn đầu đội hình. Người Pháp có đôi mắt dữ dội ấy nhanh chóng tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của cậu bé Joseph mười lăm tuổi. Cậu đang bắt chước kiểu ngồi giống y như thế, cố ưỡn hai vai lên thật cao và giữ thật ngay. Nét mặt rám nắng, tựa chim ưng, cùng với sự im lặng nghiêm nghị của Jacques làm cậu nhớ tới những hình vẽ các chiến sĩ anh hùng Hi Lạp và La Mã thời xa xưa trong mấy cuốn lịch sử từng làm cậu say sưa ngắm nghía. Sự mất tinh thần cậu cảm thấy sáng nay khi xe của họ tông thẳng vào cậu bé An Nam nhà quê làm tăng cảm tưởng e sợ cậu có từ trước, khi còn ở trên tàu Avignon.
Tuy vậy, Joseph hoàn toàn quên bẵng sự cố đó khi vừa cùng đoàn người đi săn đặt chân vào rừng thẳm, cỡi lên những con ngựa nhỏ đầy đủ yên cương do mấy người Mọi khuân vác của Devraux dẫn từ trại săn ra đón họ bên đường lộ.
Có lúc, đoàn người băng ngang một trảng cỏ cao ngang vai, nóng hừng hực trong ánh nắng chói chang cực độ. Rồi ngay sau đó, họ bất ngờ đi xuống, vào một thế giới kỳ bí, lặng lẽ và âm u, nơi không khí mát rượi, mặt đất xốp và mềm dưới chân. Liền khi ấy, họ sửng sờ kinh ngạc bất chợt bắt gặp những đóa lan lộng lẫy trong các lùm cây xanh biếc đậm đà. Biến đổi ấy làm Joseph xúc động trước những biểu lộ thì thầm tịch mịch của rừng thẳm cùng những tiếng thở dài não nuột xen lẫn những âm thanh rờn rợn toát ra khắp chung quanh mình.
Họ quấy rầy lũ cá sấu đang nằm ngủ dưới các vũng sông cạn, lắng nghe tiếng táp chói tai của một con nai nào đó nơi lùm cây bên bờ suối và thấy một bầy lợn rừng ủn ỉn kêu khụt khịt phóng mình chạy từ một ao nước tù đọng, phẳng lặng khi họ tới gần. Joseph và Chuck thi nhau gọi tên những con chim đẹp lạ thường xuất hiện trước mắt hai anh em: cò quăm, chim bói cá, diệc, trĩ trắng, và có lần, một con công cuống cuồng lao ngang lối đi của họ. Trên bộ mặt Joseph nở một nụ cười tươi rói và bất biến, sung sướng và rộng hết cỡ. Rồi tới lượt Paul toét miệng cười với cậu khi cho ngựa chạy nước kiệu trở lui kiểm tra mấy chiếc xe bò.
Cậu trai Pháp đột nhiên gò ngựa lại bên Joseph, chỉ tới bờ xa của đồng cỏ họ băng ngang, và nói:
- Kia kìa, Joseph. Có thấy đàn voi đằng kia không?
Xoay mình thật nhanh trên yên, Joseph kịp thấy xa xa có chừng hai chục cái ụ xám đang im lặng chuyển động rồi chuồn lẹ vào cây cối rậm rạp. Cậu thầm thì đầy ngưỡng mộ và hể hả hoác miệng ra cười rộng tới mang tai:
- Đó là những con voi rừng đầu tiên tôi thấy trong đời mình đấy!
Miệng Joseph vẫn toe toét nụ cười khi đoàn người tới trại săn đã được người Mọi dựng lên ở chỗ uốn mình của một khúc sông nước chảy chậm. Bốn nhà lều dùng làm chỗ ở, cất bằng rui mèn tre và lợp lá cọ. Kế bên chúng, dựng mấy túp lều vải bạt dùng làm nhà bếp và nhà kho. Lập tức, dân bộ lạc miền núi, những kẻ hình như vừa cất chân bước thẳng ra từ các tấm ảnh màu nâu đậm trong cuốn sách sử ký cậu vừa đọc mấy hôm trước, bắt đầu cất giở đồ đạc.
Joseph thấy họ lấy ná và tên từ trên xe bò xuống, mang về lều của mình cách đó chừng trăm thước, cắm dọc mé bên này sông. Qua những gì đã đọc, cậu hiểu rằng Mọi là một tiếng gốc từ một thành ngữ Việt cổ có nghĩa là “người man di mọi rợ”. Khi nhìn những người trán bẹt, nước da sẩm màu ấy, cậu có thể nhận ra họ thuộc một thành phần chủng tộc khác với người An Nam. Trên mình chỉ đóng khố ngang bẹn, họ ở trần, phô ra cả hông lẫn đùi. Vẻ mặt chất phác, tiếng cười thật dòn, họ vừa chuyện trò rôm rả bằng ngôn ngữ của mình vừa tất bật chạy tới chạy lui làm việc. Vài người tết vải vụn vào mái tóc đen dài. Người nào cũng đều quấn quanh cổ một hay nhiều xâu chuỗi hột.
Đàn bà Mọi đứng chờ bên ngoài lều, chào đón đoàn người mới đến. Họ đeo vòng thiếc nơi cổ tay và cổ chân nhưng y phục độc nhất là miếng vải dài thổ cẩm màu sậm quấn từ hông trở xuống, đưa ra bộ ngực nhô cao với núm vú sẩm màu. Thấy Joseph đăm đăm nhìn phụ nữ, Paul bước tới bên cạnh, đưa tay quàng qua vai cậu, nhe răng cười hỏi:
- Joseph thích đàn bà Mọi rồi phải không?
Cậu bé Mỹ đỏ mặt, cười cười:
- Ngó họ cũng được đó chớ.
- Họ là một nhánh của bộ tộc Ra-đê — nhưng phải chăng cậu có ý nói là hơi già một chút so với sở thích trẻ măng của cậu? Ông tù trưởng trong cái sóc gần chỗ này có một tá bà vợ và cả chục nàng con gái trẻ hơ hớ, tươi rói, thật hợp với một chàng trẻ tuổi nhiều đam mê như cậu.
Paul đập một phát vào lưng Joseph rồi lại cười. Kế đó, cậu hất đầu về phía thượng nghị sĩ và Chuck đang tiếp tay cha cậu và Ngô Văn Lộc trông coi việc giở đồ trang bị:
- Lúc này ai cũng bận công việc, tại sao mình không thử đi tìm thứ gì đó tươi mát để cho vô soong vô chảo. Thí dụ như một con nai nhỏ bé non mềm cho bữa ăn tối nay.
Nói tới đó Paul nháy mắt:
- Và nếu còn thì giờ, tiện thể tôi cho cậu thấy một sóc Mọi!
Jacques tần ngần nhìn về phía cha:
- Có phải xin phép thì tốt hơn không?
- Cậu đi lấy súng. Tôi tới xin thử coi có được không.
Paul chạy tới nói chuyện với thượng nghị sĩ và cha trong khi Joseph đi lấy khẩu các-bin Winchester loại nhẹ trong căn lều cậu được chia cho ở chung với Chuck. Chút sau, cậu trai Pháp trở lại mang theo khẩu Mauser .350 khoác hờ hửng trên vai:
- Ổn thoả rồi. Tôi hứa chúng ta sẽ mang về một chú nai tơ thật non.
Kê miệng sát vành tai Joseph, cậu thì thầm:
- Như thế có nghĩa cả hai đứa mình đều phải bắn, được chớ?
Hai người Mọi vác sào ngắn đi theo họ ra chiếc xuồng độc mộc cột sát bên trại. Họ chèo xuồng qua bên kia sông, tới một bờ đất bằng phẳng. Khi mọi người lên bờ, Paul bò rón rén tới trước. Từ đằng sau một thân cây, cậu chăm chú quan sát đồng cỏ. Rồi cậu vẫy Joseph tới:
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:24 AM
- Kia kìa, nhìn kìa! Có tới cả chục con nai đang gặm cỏ.
Mặt trời xế chiều bắt đầu mất dần sức nóng nhưng dưới ánh chói lọi lập loè, đồng cỏ dợn sóng vẫn sáng lung linh một màu xanh xám mờ ảo. Đôi mắt thiếu kinh nghiệm của Joseph không nhận ra chuyển động nào. Paul quay qua Joseph đang rụt rè khum hai bàn tay đưa lên che trán cho tới khi nhìn thấy đàn nai.
- Đó! Cách đây chừng tám trăm thước. Mấy vệt đo đỏ gần cái cây đó. Chúng ta hên, gió thổi ngược chiều về phía mình. Chỉ việc đi nhè nhẹ tới cái cây đó rồi nhào ra vồ hai người đẹp. Một cho chúng ta và một cho cô gái con ông tù trưởng, được chớ?
Paul hất hàm và im lặng, nhón chân đi tới hướng bầy thú đang gặm cỏ. Khi còn cách bầy thú chỉ khoảng năm chục thước, cậu trai Pháp xoay mình lại, nhướng đôi lông mày tinh quái lên, vừa thì thào như thổi vào tai Joseph vừa gục gặc đầu, nháy tít mắt:
- Này Joseph... cậu có bao giờ... trước đây... cậu có từng...”ấy”...
Đột nhiên cảm giác hai má nóng bừng, cậu bé Mỹ quay mặt qua chỗ khác:
- Tôi nghĩ là chưa...
Cười rất tâm phúc, Paul nắm cánh tay Joseph:
- Cậu biết không, ở tuổi cậu... tớ đã...”ấy”... Thôi bỏ đi! Chúng ta hãy cứ bắn con nai đầu tiên cái đã.
Paul dẫn Joseph tới trong vòng ba mươi thước cách con nai đang hồn nhiên gặm cỏ rồi ra hiệu cho Joseph ngồi xuống đất ngay mép bãi cỏ. Còn cậu ngồi xổm một bên Joseph hướng dẫn cách chống cùi chỏ sao cho khẩu súng nằm yên. Paul thì thầm chỉ tới một con còn tơ:
- Chơi con nai gần mình nhất!
Joseph đặt tay lên súng, đăm đăm nhìn con nai nhỏ nhắn xinh đẹp. Nai đứng phô trọn vẹn một bên sườn lốm đốm trắng ra cho cậu. Một cái bia không chê vào đâu được. Cậu trai Pháp thúc giục:
- Chơi đi chớ, nhắm ngay mục tiêu!
Nhưng Joseph không nâng súng lên. Cậu nói thật nhẹ, hai má lại đỏ bừng vì bối rối:
- Paul, anh bắn đi. Tôi có thể bắn trượt làm nó hoảng hồn bỏ chạy.
Cậu trai Pháp bực mình càu nhàu thành tiếng. Trong tư thế đứng, cậu bắn với vẻ gần như tình cờ. Con nai tơ theo phản xạ lập tức chồm lên rồi vật mình xuống mặt cỏ, chết ngay tại chỗ. Paul lại bắn một con nai cái lớn hơn đang bỏ chạy trong khi lũ nai con phóng tìm chỗ núp. Hai người Mọi khuân vác chạy vô bãi cỏ, xách hai con nai vừa chết lên, cột vào cây sào rồi gánh lên vai. Cậu trai Pháp hoác miệng cười thật rộng, dẫn đường vào rừng. Trong một khắc đồng hồ, họ len lỏi qua cây cối men theo một lối mòn nhỏ hẹp.
Sóc Thượng họ tới gồm khoảng ba mươi sáu mái nhà dựng trên cột cao, sàn cách mặt đất chừng ba thước. Trong bóng râm bên dưới sàn nhà, heo, chó, gà nhà, ngựa và có cả vài con trâu nước già nua quây quần thành một đàn lũ hôi hám. Vừa nghe tiếng đoàn người đi tới, trẻ con Mọi đua nhau chạy ra bu quanh, bắt đầu náo nức nhảy nhót và la hét khi thấy hai con nai vừa săn được. Paul móc trong túi quần ra một vóc kẹo, ném vào giữa đám trẻ con. Chúng ré lên giành nhau, cuối cùng, những chiến lợi phẩm đó bị giật lòng vòng từ tay nàyï sang tay nọ.
- A, rốt cuộc đây rồi! Đây, “già làng” đang tới!
Cậu trai Pháp huých cùi chỏ vô hông Joseph khi có một người Mọi cao lớn, tóc bạc, rõ ràng là tù trưởng của sóc, đang chầm chậm bước theo các nấc thang làm bằng cây rừng dẫn từ nhà sàn xuống đất. Paul đưa tay về phía con nai lớn nhất đang treo tòng teng dưới cây sào trên vai người khuân vác rồi nghiêng mình, hoa tay vẽ thành một cử chỉ hiến tặng rất điệu nghệ.
Trên mái tóc dài của người già ấy gắn một chiếc nơ vải bạc màu. Ông nhìn cậu trai Pháp trong một lúc rồi bộ mặt phong sương nhăn nhúm ấy chầm chậm nứt ra thành nụ cười. Và ông dơ một cánh tay lên quá đầu. Đột nhiên, từ bên trong nhà sàn sau lưng già làng vang ra tiếng cồng tiếng trống. Rồi lập tức xuất hiện một người đàn bà hai tay đưa lên một cái ché cao bằng đất.
Từ đôi môi cậu trai Pháp thoát ra tiếng thở phào thoả mãn. Cậu thì thầm:
- “Rượu cần” đấy!
- Cái gì?
- Rượu cần — thường thì dịu và hơi nhạt. Nhưng loại rượu cần của già làng đây làm bằng thứ gạo đặc biệt, nồng độ rất cao mà hậu ngọt lịm, chỉ người Mọi trong sóc này mới có. Ủ men ba năm — mạnh ghê gớm. Liệu cậu uống nổi không đấy?
- Tôi không biết.
- Chỉ là chuyện nhỏ đối với kẻ từng túm cổ con khỉ lôi ra khỏi chiếc độc bình đời Minh trước mặt bá quan văn võ!
Cười ha hả, cậu trai Pháp đi theo già làng leo lên thang cây, bước vào bên trong ngôi nhà sàn dài cảnh sắc lờ mờ. Vừa đặt chân qua ngưỡng cửa, Joseph bật lên ho rũ rượi không nín nổi. Vài ngọn lửa đang cháy bập bùng, khói thốc thẳng vô cổ họng Joseph làm mắt cậu cay xè. Sàn nhà kết bằng những thân tre xếp liền nhau theo lối tiện đâu đặt đó và cậu trượt chân loạng choạng mấy lần giữa những khúc tre tròn ấy. Dưới mái lá, bắp khô treo la liệt. Khi Joseph vươn thẳng lưng lên, đầu cậu đụng một bó bắp, khiến vỏ khô cùng lũ mọt bắp tuôn như mưa xuống khắp người.
Qua ánh lửa bập bùng, Joseph thấy ra Paul ngồi xếp bằng tròn trên miếng da trâu bên cạnh già làng, và tạ ơn trời, cậu thả người ngồi xuống ở phía bên kia. Cậu nghe cậu trai Pháp thì thầm thúc giục rồi tù trưởng lầm bầm thọc chiếc cần tre dài rỗng ruột vào ché rượu, hút một hơi dài. Hút xong, ông đưa mu bàn tay quệt ngang miệng còn tay kia bẻ lái qua cho Joseph. Cậu bé Mỹ do dự rồi đón cần tre cho lên miệng, nút mạnh đầu cần. Vị gay gắt của rượu thốc lên mũi làm cậu mất thở, cuống họng thắt lại. Paul ngửa người khoái chí, lại cười ha hả, trong khi Joseph nổi cơn ho sặc sụa, phun ra hết một nửa.
Phải mất mấy phút Joseph mới về lại cõi thực. Chỉ tới lúc đó cậu mới có thể thấy, qua lửa sáng lung linh, phần sau của ngôi nhà sàn tập thể này được chia thành nhiều ngăn nhỏ như ngăn chuồng, dành cho các bà vợ và các cô con gái của già làng. Các ngăn đều vắng vẻ còn hết thảy phụ nữ Mọi đang ngồi dọc theo vách nhà, đều tay vỗ cồng vỗ trống. Người nào cũng ở trần. Cơ thể họ rung nhịp nhàng theo bàn tay vỗ vào nhạc cụ. Già làng lại chuyền rượu cần. Lần này, khi rượu đốt thành một luồng gió nóng rực như lửa chạy xuống dạ dày, Joseph nghiến chặt răng. Mắt cậu nổ đom đóm rồi tươm mồ hôi. Hơi rượu gắt tới độ nước mắt trào ra ướt đẫm má. Nhưng cậu nuốt cảm giác buồn ói xuống. Và lập tức, cảm thấy lòng tự hào về bản thân bốc vút lên trời xanh.
Cả ba tiếp tục luân phiên hút rượu trong ché. Nhưng dần dần tác động của khói, rượu và tiếng trống tiếng cồng râm ran làm giác quan choáng váng, mắt lim dim mập mờ. Khi ché rượu cần bắt đầu chuyền tới phiên Joseph nhanh hơn, cậu mới nhận ra đang bị bỏ ngồi lại một mình bên già làng câm lặng. Lúc đó, các phụ nữ bắt đầu vỗ cồng vỗ trống theo nhịp điệu dồn dập hơn.
Trong ánh lửa chập chờn, một người nữ phần thân thể phía trên trần trụi loang loáng màu đồng bước tới, cúi ngực xuống sát bên cạnh Joseph, châm thêm nước vào ché rượu. Da thịt lồ lộ ấy khá gần khuôn mặt cậu. Cậu ngửi ra mùi đàn bà nồng nàn. Và đưa mắt khắc khoải ngó quanh, cậu nhìn vào cảnh sắc lờ mờ tối, tìm cho ra dấu hiệu nào đó của cậu trai Pháp đồng hành. Cậu nghĩ đã có lần mình nghe ra tiếng Paul cười rúc rích trong bóng tối. Nhưng mắt cậu không nhìn xuyên suốt nổi cảnh nửa tối nửa sáng này.
Lúc người đàn bà đứng lên về chỗ cũ, Joseph cũng nhón chân đứng dậy. Cậu quờ quạng tìm đường ra mé sau nhà, vừa đi vừa gọi tên Paul. Nhưng từ trong bóng tối không vọng lên tiếng trả lời nào. Sau khi lắc lư loạng choạng khoảng một hai phút, cậu trượt chân trên những lóng tre đang cài vào nhau, khuỵu đầu gối té xuống. Rồi Joseph cảm thấy có bàn tay ai đó nâng mình lên, dìu vào một ngăn nhỏ. Ở đó, cậu nằm dang tay dang chân, nhắm nghiền hai con mắt cay xè. Đầu choáng váng, cậu bắt đầu vật vờ lơ mơ men rượu. Nhưng cảm giác có thêm sự có mặt của một bóng hình khác khiến cậu mở mắt ra.
Trong ánh sáng của lửa rọi lên vách nhà rồi hắt lại, Joseph thấy nghiêng nghiêng bóng một phụ nữ Mọi hoàn toàn khỏa thân và đang quì sát bên cậu. Khi cậu nhướng mắt lên ngó, bàn tay của người nữ ấy bắt đầu hành sự, nhịp nhàng theo những động tác nào đó hồn nhiên và vụng dại. Phụ nữ này là ai, cậu tự hỏi, và tại sao lại tạo ra một ngọn lửa khác, theo cách thức của các dân tộc xa xưa? Joseph nghe tiếng những chiếc vòng thiếc kêu rộn ràng trên cườm tay khi người nữ Mọi thỉnh thoảng cúi mình xuống ngay trên nắm tay cậu, làm như thể hà hơi vào những cục than không chịu cháy đỏ. Việc ấy chỉ xảy ra một lúc nào đó trước khi cậu kịp nhận ra trên người mình không còn quần áo. Và hai bàn tay nồng nàn của người nữ ấy đang vỗ về mơn trớn thịt da trần truồng của cậu.
Joseph dõi theo mọi cử chỉ của người nữ ấy, thờ ơ như đang trong một giấc mơ. Tình trạng toàn thân tê liệt dường như làm tan loãng mọi dấu vết cảm xúc trong con người cậu. Những lúc bộ mặt ấy ở trong tối, chiếc đầu ấy động đậy sôi nổi và tập trung nhưng đôi mắt ấy không bao giờ tìm kiếm khuôn mặt cậu. Dần dà, Joseph nhận ra những rung chuyển của hình bóng người nữ đang áp thật sát vào thân thể cậu. Rồi thật kinh ngạc, cậu bỗng nghe ra tiếng cậu trai Pháp nức lên như một con vật đang trong cơn quằn quại. Chút sau, cậu nghe ra giọng cười rậm rật của Paul. Âm thanh nghèn nghẹt trong yết hầu như thoát lên từ chỗ nào đó rất sâu dưới cuống họng.
- Được rồi, Joseph, sao? Chuyện ổn thoả chớ?
Những lời ấy được nói ra rất nhẹ, bằng tiếng Pháp, sát bên tai cậu bé Mỹ khiến cậu bắt đầu ngọ ngoạy người. Cậu nghe như thể có tiếng rên rỉ đau đớn âm ỉ thoát ra thành tiếng gầm gừ. Rồi những rung chuyển kế bên cậu lại tiếp tục thêm nữa.
Joseph cố đứng lên nhưng người thiếu nữ đang nghiêng bóng trên cậu lại cúi xuống gần hơn và vụng về gieo thân xác của mình xuống trên người cậu. Chính lúc đó cậu cảm giác được cái thanh xuân rất mực của cô gái. Hai bầu vú sóng đôi trên bộ ngực sẩm màu với hai chấm gọn ghẽ, sắc nét, thật cứng thật chắc. Và trong bóng tối gần như đen đặc, thịt da màu chàm đậm ấy mềm mại như lụa, không một sợi lông và rất đổi mịn màng. Đột nhiên, mùi hôi nồng nặc của trâu, ngựa, gà... và mùi chua chua của thức ăn để dành cùng với mùi khói ngai ngái, cộng thêm mùi thum thủm thoang thoảng của thiếu nữ này, tất cả đối với Joseph đều hoàn toàn mới mẻ. Những chiếc vòng trên cổ chân cô gái nhảy nhót, rung leng keng và giục giã hơn. Hơi thở hăng hắc của cô bắt đầu phả nhẹ vào mắt cậu khi cô dang đùi ra, ép chiếc bụng sẩm màu đè lên bụng cậu.
Ký ức huyền ảo về lần đầu tiên đặt chân vào bóng tối của rừng xanh ẩm ướt rêu phong trước đây trong ngày bỗng thoáng bừng lên trong tâm thức lùng bùng của Joseph. Nhưng lúc này toàn thân cậu đờ đẩn buông xuôi theo nhữngï hối hả điên cuồng, theo sự trào dâng nhức buốt của trinh nguyên và ngọt ngào của da thịt rực cháy trong bóng tối thăm thẳm của ngôi nhà sàn. Trong khích động, Joseph kêu lên, cố vặn mình thoát ra nhưng cặp đùi khoẻ mạnh của thiếu nữ Mọi vô danh kia đã quặp chặt cậu. Chỉ tới khi nhịp điệu của hai thân thể hòa làm một rồi Joseph có cảm giác rùng mình thoát xác, tuôn hết tận cùng sinh lực. Và sát bên mình có hơi thở ra thật dài, nghe như tiếng vũ trụ chuyển mình, cậu mới cảm thấy được nới lỏng. Bằng đôi tay rã rời tê dại, cậu chầm chậm gỡ thân mình ra khỏi người nữ và đứng lên, chóng mặt chúi đầu vào vách nhà. Joseph nhắm mắt lại, trong cổ họng phát ra hơi thở khò khè.
Từ giữa bóng tối sát bên Joseph bật lên một tràng cười hoang dại. Tiếng cười ấy lên xuống theo nhịp tiếng trống tiếng cồng nối tiếp nhau, không lơi không giảm, làm ngôi nhà sàn tràn ngập những thanh âm rộn ràng như tái tạo nguồn sinh lực. Một lúc sau Joseph Sherman cùng con tim mười lăm tuổi của cậu đang bơm máu với một niềm hưng phấn mới mẻ và bất chợt, cũng bắt đầu cất tiếng cười rộn ràng.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:26 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 10 -
- Nào, thưa quí vị, hôm nay chúng ta lên đường đi săn trâu rừng!
Thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman đứng chính giữa bãi đất trống của trại săn, chân đi ủng kỵ mã, tay nắm chặt khẩu súng hai nòng loại thủ công hiệu Purdey .450. Ông kéo cho chiếc mũ đi nắng sụp ngay ngắn trên đầu mình và nụ cười tươi rói đầy tự tin làm da mặt ông nhăn nhíu thành nếp:
- Người đẹp đây hoặc cậu em sinh đôi của nó sẽ khạc những viên đạn rắn đặc vào bất cứ con trâu rừng An Nam nào lọt vào tầm đánh hơi của nhà Sherman.
Nathaniel đập đập mũi súng trường lên đầu ủng da rồi hất hàm về phía Chuck đang ung dung ôm trong tay khẩu súng trường cùng loại:
- Và trong trường hợp họa hoằn lắm tôi bắn trượt, còn có nhà thiện xạ trẻ tuổi đây với khẩu Holland đầy tử khí và khẩu Holland thần công cùng một cỡ nòng sẽ hiếm khi để nó chạy thoát. Đúng không Chuck?
Cậu con lớn khoái chí toét miệng cười:
- Chắc chắn vậy rồi bố.
- Và trong trường hợp không chắc có thật, nếu hai bố con tôi bắn trượt mục tiêu — tôi có ý nói cơ hội đó chỉ một phần triệu — tới lượt cậu thiếu niên Joseph đây với khẩu cạc-bin Winchester sẽ là kẻ rất ưu ái dứt điểm mấy con chạy lọt lại đằng sau. Đúng không cậu Joey?
Joseph giật mình ngó lên và gặc đầu thật mạnh dù không nghe ra cha đang nói cái gì. Cậu đứng mé ngoài đoàn người gồm Flavia Sherman, hai cha con nhà Devraux và sáu người Mọi có nhiệm vụ dò dấu thú nhưng tâm trí cậu chỉ lơ mơ về cuộc săn bắn sắp tới.
Sáng nay, ngay từ lúc vừa thức dậy, Joseph chỉ nghĩ quanh quẩn tới cuộc gặp gỡ cô gái Mọi không quen chiều hôm qua. Hễ lần nào nhớ tới những gì đã xảy ra cậu lại cảm thấy khắp người rạo rực một luồng hứng khởi. Mùi hôi của ngôi nhà âm u, rượu gạo làm choáng váng đầu óc cùng với tiếng cười chế giễu của Paul, tất cả giờ đây quyện vào nhau làm thành một ký ức hỗn tạp và dịu ngọt. Cậu quả thật đã làm chuyện ấy. Có bao nhiêu cậu bé mười lăm tuổi ở Hạt Charles, Virginia có thể nói được câu đó? Hễ lúc nào nghĩ tới cảm giác đầu tiên, ngạt ngào và mù lòa đó, như sáng nay từng nghĩ tới cả trăm lần, Joseph phải nhắm mắt lại. Trước đây chuyện ấy có vẻ gần như không thể... Nhưng lúc này cậu biết chắc chắn rằng mình đã làm chuyện ấy. Và mình có thể làm chuyện ấy thêm lần nữa!
- ...Nghĩa là, nếu hắn kềm lại được cơn buồn ói “rượu cần”!
Mấy tràng cười tán thưởng lời mào đầu khôi hài của cha cậu làm tắc nghẽn dòng suy tưởng về cuộc phiêu lưu chiều hôm qua. Với vẻ có lỗi, Joseph ngước mắt lên, thấy mẹ và anh cùng Paul đang nhìn mình, miệngï cười tươi rói.
Tối qua khi về trại với vẻ người xác xơ vì ‘rượu cần’, Joseph nhận được nhiều lời trêu chọc ác liệt. Paul cười cười cắt nghĩa rằng cả hai chỉ nút chút ít rượu còn đọng trong chiếc cần tre để xã giao với ông tù trưởng Mọi, nhưng rượu lại chạy ngược lên đầu của Joseph. Để mọi người không chú ý sự việc đó nữa, Paul đánh trống lãng bằng cách qui cho Joseph công giết con nai và như thế, đoạt được chiến công đầu tiên của đoàn thám hiểm vì trước đó, thượng nghị sĩ đã quyết định nên sưu tập một nhóm nai. Joseph lại làm mọi người ôm bụng cười ngặt nghẽo khi cậu xin cho mình được miễn bữa ăn tối và đi thẳng về lều. Tại đó, cậu lăn đùng ra đánh một giấc say sưa, ngon lành. Tới lúc trời vừa sáng, cậu thức giấc theo tiếng thét của chim rừng và ngồi lên với cảm giác nhẹ nhàng sảng khoái từ đầu sợi tóc tới mút ngón chân.
Trước khi trời sáng, Jacques Devraux phi ngựa ra đường lộ, dắt theo một con ngựa để đón chiếc xe chở Flavia Sherman từ Sài Gòn lên. Cả hai về trại trước giờ ăn sáng. Khi chào mẹ, Joseph thót ruột, lo lắng với ý nghĩ không biết mẹ có biết chuyện ấy không. Thẹn đỏ mặt với ý nghĩ đó, cậu vội quay nhìn nơi khác, nhưng rồi dần dần cậu cảm thấy muốn, muốn kinh khủng, được chia sẻ với mẹ bí mật của mình.
Cho tới lúc này Joseph luôn luôn tin tưởng mẹ, không chút ngại ngần, nhưng giờ đây có vẻ kỳ lạ là đang có cái gì đó khiến cậu kềm mình lại. Cậu tự nhủ có lẽ người lớn có khả năng phát hiện chuyện ấy, chẳng cần ai nói cho họ biết. Họ chỉ việc nhìn là có thể phân biệt chính xác kẻ nào đã từng và kẻ nào chưa từng làm chuyện ấy. Joseph để ý thấy rõ ràng sáng nay, khi đi dạo quanh trại, mình có khuynh hướng nghênh ngang, và lúc này cậu đang cố sức đè nén lòng kiêu hãnh đó. Rồi cậu lại ngẫm nghĩ giả dụ mẹ có biết, hẳn bà cũng chẳng để lộ chút nào.
Quả thật từ khi tới trại săn Flavia Sherman không để ý nhiều tới hai con như thường lệ. Cỡi ngựa lúc trời tảng sáng một mình với Jacques Devraux trong rừng nhiệt đới giữa cảnh đẹp thiên nhiên vô cùng quyến rũ, ban đầu trong lòng bà bừng lên cảm giác thú vị phát xuất từ niềm háo hức bị ức chế lâu ngày giờ đây dần dần dâng lên thật cao rồi cuối cùng, lắng đọng thành một tâm trạng nôn nao và đầy bối rối.
Từ buổi tối tiếp tân tại dinh thống đốc khi Flavia quay đầu bắt gặp Devraux đang dán tia mắt vào lưng mình, ký ức về cơn thèm muốn trần trụi bà thoáng thấy trong đôi mắt hắn đã và đang âm ỉ cháy trong tâm tư bà. Vì biết trước hắn sẽ một mình ra đón nơi đường lộ, sáng nay tại lô phòng của mình ở Khách sạn Continental Palace, Flavia thức dậy thật sớm, tắm rửa, tẩm nước hoa và săn sóc mình đặc biệt kỹ lưỡng. Bên trong mũ đi nắng, bà bọc tóc bằng tấm lưới móc chỉ màu đậm, mặc quần tây cụt mới may bó sát thân mình và chiếc áo đi săn cao cổ bốn túi do thợ cắt may riêng làm nổi bật vóc dáng cân đối và thanh mảnh.
Khi Flavia bước xuống xe, Devraux thận trọng chào bà đúng phép tắc. Lúc hai người bắt đầu dong cương, thái độ của hắn vẫn giữ nguyên vẻ cứng cỏi lãnh đạm. Tuy thế, bà có cảm giác trong lòng hắn cũng đang căng thẳng. Bằng trực giác, Flavia biết rằng việc Devraux giữ cho mắt đừng nhìn bà không phải vì thiếu quan tâm. Trong thâm tâm, bà cảm thấy hình như mình có phần nào chiến thắng. Cảm tưởng ấy sâu đậm thêm khi cả hai cỡi ngựa đi bên nhau qua những trảng rừng bừng sáng và im mát.
Thỉnh thoảng, trên đường mòn nhỏ hẹp, Flavia để mặc con ngựa mang bà đi lên sóng đôi với Devraux, có lẽ hi vọng rằng hắn sẽ để cho cất thành tiếng nỗi đam mê đầy hứa hẹn hắn từng để lộ liễu lên mặt tại dinh thống đốc. Nhưng khi cả hai lần theo con đường về trại săn, hắn chỉ nói những câu hoàn toàn liên quan tới dấu vết của chim muông và đời sống hoang dã hắn nghĩ có thể bà đang quan tâm.
Ở chỗ bùn lầy bên sông, Devraux chỉ cho bà thấy vết chân của một con cọp ra uống nước đêm rồi. Tại một chỗ khác trên đường mòn, hắn hướng sự chú ý của Flavia tới những cành cây trụi lá và đám cỏ xác xơ, dấu vết còn lại của một đàn voi vừa kéo nhau đi qua. Mỗi khi có phát hiện nào mới, mắt Flavia lại sáng long lanh. Bà bám vào từng lời Devraux nói nhưng trên bộ mặt khắc khổ của hắn vẫn không hiện lên chút cảm xúc nào. Mắt hắn vẫn xa xôi, không chút thay đổi. Rốt cuộc, bà đành phải gợi trước chuyện riêng tư với lời nói dịu dàng bằng tiếng Pháp:
- Monsieur Devraux, các con của tôi có kể cho tôi nghe rằng ông mất bà nhà trong một tai nạn sông nước bốn năm trước. Khi nghe chuyện đó, tôi cảm thấy rất xúc động.
Flavia thận trọng chọn lời với ý định phá vỡ cái rào cản lạnh lùng hình như người Pháp quyết giữ cho bằng được giữa cả hai. Nhưng Devraux không tỏ cho thấy lời gợi chuyện của bà có làm hắn dao động hay không. Thay vào đó, hắn tiếp tục né tránh ánh mắt bà và cỡi ngựa đi bên cạnh bà với nét mặt trơ cứng trong chiếc mặt nạ vô cảm thường trực. Flavia lại hỏi, nhất quyết moi cho bằng được một câu trả lời nào đó về chuyện ấy:
- Có phải sự vắng mặt của bà nhà làm ông cảm thấy đau lòng?
- Tôi đã chọn cho mình một lối sống tách biệt!
Câu đáp trả của Devraux quyết liệt tới độ làm Flavia dội ngược. Đột nhiên bà nghe vang trong tai nhịp trái tim mình đập, cảm thấy hai gò má ran rát nóng vì sự tiến tới không giữõ ý tứ ấy. Và bà rơi vào tình thế im lặng khốn quẩn. Nhưng chỉ phút sau, Flavia sửng sốt khi nghe người Pháp bật ra thành tiếng. Vẫn không nhìn bà, hắn nói với vẻ hờ hửng trên bộ mặt sắt đá quen thuộc:
- Công việc của tôi lấp đầy thời gian của tôi. Đời thuộc địa không cái gì có thể đoán trước. Các tây thuộc địa người Pháp phần đông lắm chuyện, chỉ ưa ngồi lê tọc mạch. Tôi thích đi săn — và giữ mình sống tịch mịch.
- Lần đầu tiên gặp ông trong buổi tiếp tân của thống đốc, tôi thấy ông có vẻ u uất.
Lúc đó, Devraux đột ngột thúc ngựa vọt lên phía trước, không trả lời. Cả hai cỡi ngựa đi tiếp một hồi lâu trong im lặng. Thái độ lạnh lùng của hắn khiến Flavia tin rằng sẽ không ai nói với ai lời nào nữa. Nhưng tới giữa một khoảng đất trống, Devraux kềm cương, xoay ngựa lại chờ bà. Lần đầu tiên hắn nhìn thẳng vào mặt Flavia. Bà thấy trong góc mắt tối đen của hắn bập bùng ánh lửa giận dữ pha lẫn đau đớn. Bắp thịt trên mặt Devraux săn vồng khi hắn nói, càng nói hơi thở hắn càng rối loạn:
- Chúng tôi cho xe xuống phà qua sông trong một sáng bão rớt cuối mùa gió chướng. Nhà tôi không muốn đi nhưng tôi bảo không sao vì trước đó tôi vẫn thường qua sông trong thời tiết xấu như thế. Phà chìm. Tôi lao xuống nước nhiều lần. Có lần tôi cảm thấy tay mình chạïm trúng tay áo của nhà tôi dưới đáy sông — nhưng tôi không tìm ra bà ấy. Có lẽ lúc này, Madame Sherman ạ, xin bà vui lòng đừng hỏi tôi thêm câu nào nữa.
Hắn lại dong cương vượt lên phía trước Flavia, không màng tới lời xin lỗi của bà. Và hắn giữ vị trí đằng trước cho đến khi họ tới trại. Lúc đi loanh quanh khu vực lều trại, hắn tránh mọi tiếp xúc với bà. Dù cả hai đứng gần nhau trong khi lắng nghe chồng bà nói, hắn không làm một cử chỉ nào tỏ cho thấy hắn biết bà đang có mặt.
- ...Về vấn đề điều động ai làm việc gì, ai đi chỗ nào trong rừng — thượng nghị sĩ tiếp tục — thì lời của Monsieur Devraux đây là luật! Ông ấy biết rõ địa hình địa vật. Tôi cũng không cần phải nhắc nhở quí vị rằng chúng tôi có mặt nơi đây là để sưu tập từng nhóm động vật đem về Mỹ triển lãm tại Nhà Bảo tàng Sherman. Vì thế, tôi là người quyết định ai bắn cái gì và sẽ bắn lúc nào.
Thượng nghị sĩ cười thật tươi với mọi người và đưa tay về phía người Pháp, ra hiệu cho hắn dẫn đầu lên đường:
- Nếu tất cả đã hiểu rõ thì nào, Monsieur Devraux, chúng ta khởi hành!
Đoàn người theo Devraux ra khỏi trại, đi thành hàng một và lần bước dọc theo mé sông, tìm những vũng nước ban ngày trâu rừng thích đằm mình. Dù họ di chuyển rón rén đúng theo chỉ dẫn của Devraux, những đàn vẹt dày đặc lông đen tuyền vẫn vọt bay khỏi ngọn cây khi họ đi qua bên dưới, làm bầu trời chợt tối sầm và không gian tràn ngập tiếng vỗ cánh. Các đoàn quân khỉ đang diễu hành bằng những cánh tay chuyền đong đưa trên vòm cây, khi thấy đoàn người ít ỏi ấy cũng giật mình kinh hãi, vừa kêu khèn khẹt vừa phóng qua các cành trên cao, lẹ làng không kém lũ chim.
Cứ vài phút một lần, Jacques sai người Mọi dò dấu thú leo lên ngọn cây cao nhất quan sát đồng cỏ bên kia bờ sông, xem xét chi li từng điểm một, nhưng lần nào xuống họ cũng lắc đầu. Không có vũng nước nào đoàn người đi ngang cho thấy dấu vết còn mới. Và suốt một giờ không thấy bóng con thú nào.
Khi mặt trời lên cao hơn trong bầu trời xanh lơ, nhiệt độ đột ngột gia tăng, trên lưng áo sơ-mi bắt đầu thấm lấm tấm mồ hôi. Chim rừng rũ rượi lặng im trong cái nóng càng lúc càng hầm hập. Cuối cùng, Jacques bảo mọi người dừng lại, chia nhau giải lao các bình-toong trà nguội được mấy người Mọi phụ trách khuân vác gùi theo. Hắn nói, giọng bực tức:
- Thưa thượng nghị sĩ, tôi sẽ đích thân đi thật lẹ tới đằng trước tìm dấu mới. Hôm nay có vẻ lũ thú khốn nạn đó không tới những chỗ chúng thường lai vãng.
Vài phút sau khi đoàn người tiếp tục lên đường, mắt Nathaniel Sherman bắt gặp có chuyển động trong đồng cỏ. Ông ra hiệu cả nhà mình và Paul dừng lại rồi im lặng hoa tay về phía bên kia sông, chỉ tới một đàn nai đang gặm trong đám cỏ cao. Ông nói, giọng thầm thì suỵt soạt:
- Nào Joseph, đây là dịp cực kỳ may mắn cho con. Vì chúng ta không tìm ra dấu vết con trâu rừng nào nên hãy cứ kiếm lấy một con trong đàn nai này đã. Để cho con nai tơ chiến công đầu hôm qua của con khỏi cảm thấy cô đơn trong nhà bảo tàng.
Joseph thoáng chút tần ngần rồi quì gối. Hạ khẩu cạc-bin trên vai xuống, cậu nheo mắt dọc theo nòng súng, nhắm phần to nhất trên cổ nai. Cậu ngoéo ngón tay vào cò súng. Nhưng thêm lần nữa, vẻ đẹp mỏng mảnh hiền lành của con nai ngăn không cho cậu bóp cò. Cậu hạ nòng xuống và đứng lên, chúc mũi súng xuống đất:
- Bố ạ, con không thể bắn nó dù là cho nhà bảo tàng của mình. Trông nó tội nghiệp quá... Và cũng xin bố biết cho là con nai tối qua do chính tay anh Paul hạ chứ không phải con.
Nathaniel nhìn Joseph, mặt lộ vẻ thất vọng, đầu chầm chậm lắc qua lắc lại. Cuối cùng ông nói với một cái chép miệng cam chịu:
- Vậy thì Chuck này! Hãy tỏ rõ cho con trai của mẹ thấy làm thế nào bắn gục một con nai!
Chuck nổ súng trong tư thế đứng. Con nai nhảy đựng lên không rồi rớt xuống, nằm lịm.
- Tốt đó con.
Thượng nghị sĩ trầm lặng nói và sai một người Mọi dò dấu thú sang bên kia sông thu thập con nai ngã gục ấy.
Khi đoàn người tiếp tục di chuyển, Joseph chầm chậm bước theo sau chót. Để ý thấy vẻ mặt cùng quẫn của con, Flavia lách sang một bên, đi chậm lại, chờ cậu tới bên mình. Bà nói dịu dàng:
- Joseph ạ, không có gì hổ thẹn trong việc con không muốn hạ sát con vật xinh đẹp ấy. Mẹ thật sự có phần nào hãnh diện về hành động đó của con.
Joseph trả lời mẹ bằng nụ cười biết ơn nhưng khi bà đưa cánh tay an ủi quàng lên vai cậu, Joseph né mình. Cậu vẫn còn lùng bùng trong hai tai âm vang lời ngụ ý nhẹ nhàng của cha về “con trai của mẹ”. Và vì lời ấy nhức nhối còn hơn việc không bắn nổi một con nai, cậu vội vàng bước lên đi trước bà, đề phòng trường hợp cha quay lại thấy hai mẹ con đang thân mật với nhau. Joseph nói thật lẹ, đưa tay chỉ con đường mòn phía trước:
- Tốt hơn là mình đi cho kịp mấy người kia, phải không mẹ?
Khi hai mẹ con vừa bắt kịp Chuck và thượng nghị sĩ, Jacques Devraux xuất hiện phía trước, trên đường mòn, đang đi ngược về phía họ. Với vẻ khiển trách, hắn hỏi khô khốc:
- Chuyện gì nổ súng vậy?
- Vì thấy không có con trâu nào nên chúng tôi săn được một con nai do tôi phát hiện trên đồng cỏ — cho một trong những nhóm động vật nhỏ hơn của mình.
Người Pháp gằn giọng, đanh từng tiếng:
- Với phát súng ấy của ông chắc chắn trong vòng ít nhất một giờ nữa chúng ta sẽ không bắt gặp con mồi lớn nào. Tốt nhất là đừng bắn con thú nhỏ nào cho tới khi có xong thứ chiến lợi phẩm ông đang tìm. Bây giờ, chúng ta phải sang phía bên kia sông lùng cho ra.
Devraux dẫn đoàn người tới chiếc thuyền độc mộc buộc xuôi theo bờ bên này, cách đó chừng tám trăm thước. Họ chống sào chầm chậm sang mạn bên kia. Ở đó cỏ cao quá ngực. Khi đi hết đồng cỏ quần áo họ ướt đẫm mồ hôi. Trong lúc ngồi nghỉ, Jacques Devraux sai hai người dò dấu thú leo lên cây quan sát.
Joseph thấy mình không thể ngồi yên một chỗ. Cậu đứng lên, đi tới đi lui, cách mọi người một quãng. Sự việc con nai cái vừa rồi khiến tâm trí cậu xao lãng một lúc. Nhưng dần dà, cảm giác hưng phấn về hành động chiều hôm qua lại tràn ngập tâm tư cậu, xua tan mọi dằn vặt.
Trong khi băng ngang cánh đồng ngập cỏ, cái nóng khật khờ của mặt trời làm Joseph váng vất, những cảm giác mãnh liệt về da thịt mềm mại của cô gái Mọi không quen biết lại bắt đầu mơn trớn thân thể cậu. Lòng nhoi nhói tiếc nuối, cậu nhận ra mình chưa một lần thấy rõ mặt cô và nếu có trở lại sóc mọi đó tìm, chưa chắc mình nhận ra cô giữa đám con gái đông lúc nhúc của tù trưởng.
Trong khi quan sát người Mọi dò dấu thú lon ton leo lên cây Joseph bắt đầu mơ mộng mình sẽ trở lại nơi đó như thế nào. Mình sẽ tranh tài với hết thảy trai tráng trong sóc thượng ấy bằng những cuộc thi đấu điền kinh quyết liệt hoặc chiến công khốc liệt. Có thể là chạy đua, thách đấu quyết tử bằng giáo với khiên và thi leo cây... Mình sẽ chiến thắng oanh liệt hết thảy bọn trai làngï. Bằng việc biểu lộ lòng dũng cảm tuyệt vời như thế, mình sẽ yêu cầu nàng công chúa Mọi vô danh ấy thuận ý bước ra, cho mình thấy rõ môi mắt và đưa bàn tay huyền ảo cho mình nắm lấy...
Khi hai người Mọi dò dấu thú từ chỗ canh chừng trên cây tuột xuống và lúc lắc đầu, Joseph bỗng nổi cơn cao hứng. Cậu hỏi Jacques Devraux xem mình có thể leo lên cây nhìn một chút bằng ống nhòm của Chuck không. Người Pháp gật đầu đồng ý, tỏ ra chẳng quan tâm chút nào tới lời thỉnh cầu đó. Joseph lập tức đu người lên cành cây thấp gần mình nhất. Càng lên cao cách mặt đất chín mười thước cành càng mảnh mai so với sức nặng của thân xác Joseph. Cậu dừng lại, đưa ống nhòm lên mắt.
Trong vài phút, Joseph không thấy gì dưới ánh nắng lung linh chập chờn mờ ảo nơi đồng cỏ. Kế đó, cậu nghĩ hẳn đôi mắt mình đang giở trò phỉnh gạt mình. Một ảo tượng gồm mấy con cá voi lưng tròn trịa hình như đang đùa giỡn giữa những đợt sóng cỏ màu vàng. Cậu kềm ống nhòm chĩa thẳng vào. Khi Joseph nhìn tập trung, lũ cá voi ấy biến thành một đàn khoảng bảy con trâu rừng đang chầm chậm nối đuôi nhau đi về hướng cậu. Chúng còn xa khoảng một cây số rưỡi nhưng với phần lưng tròn màu xám đen đang nhô lên kia thì không lầm lẫn vào đâu được.
Joseph gọi nhỏ những người phía dưới và chỉ chỏ. Lập tức một người Mọi leo lên ngọn cây khác, chăm chú nhìn theo hướng ngón tay Joseph chỉ. Rồi anh ta leo xuống bắt đầu háo hức nói liến thoắng với Devraux bằng tiếng thượng.
Gió nhẹ thổi từ phía sau đàn trâu. Jacques đưa ý kiến rằng nếu họ giữ thật thinh lặng, đàn thú ấy không thể có cảm giác mơ hồ nào về sự có mặt của họ. Con đường mòn đàn thú đang đi có vẻ sẽ dẫn chúng tới trong phạm vi một trăm tám mươi thước cách chỗ đoàn người đang núp. Và như thế, họ nên ra khỏi rừng, bò tới đồng cỏ để nổ súng khi chúng lọt vào tầm một nửa khoảng cách đó.
Gật đầu đồng ý, Nathaniel ra hiệu cho Chuck. Hai cha con khom người di chuyển vào đám cỏ cao. Joseph, dù không được vẫy gọi, cũng đi theo. Cậu trườn người thật thấp, hai tay giữ chặt khẩu Winchester.
Bò qua cỏ rậm với súng ống nặng nề trong cái nóng ban ngày làm ba cha con thở hổn hển. Chuck là người đầu tiên lấy lại sức. Khi quì nhìn qua đồng cỏ, cậu kinh ngạc thấy mình đang ở quá gần đàn trâu. Khoảng cách chưa tới ba trăm thước. Cậu có thể nhìn thấy sừng trâu như những thanh mã tấu to lớn vẹt ra hai bên đầu, đong đưa trong cỏ khi chúng vừa đi tới vừa đánh hơi từng bước một. Đây là một bầy nhỏ trong đó có hai con trâu cái khoẻ mạnh. Chuck thụp người xuống thật lẹ, háo hức kể cho cha nghe những gì mình vừa thấy.
Nathaniel ngó đồng hồ. Mặt ông cau lại, tập trung trí óc tính toán thời gian cần thiết cho đàn trâu đi vào cự li tác xạ thuận lợi nhất. Hai phút sau, ông ra hiệu Joseph ngồi yên rồi gật đầu với Chuck. Cả hai kê súng trên vai cùng đứng lên một lượt.
Đàn trâu dừng bước, kinh ngạc nhìn hai người bật dậy từ trong đám cỏ cao chỉ cách chúng chừng tám chục thước. Con trâu đực đầu đàn vênh cái đầu sừng sỏ và đồ sộ lên, như thể phát ra tín hiệu cảnh giác. Lập tức khẩu súng trường của Chuck gầm lên rồi cậu thét lớn khoái chí khi nghe tiếng bịch của viên đạn cắm ngay chóc vào bộ ngực vạm vỡ của trâu. Lúc con trâu bị thương quay mình bắt đầu phóng bạt mạng về chỗ an toàn nơi bìa rừng, Chuck nổ súng lần nữa. Nhưng phát thứ hai trật. Bên cạnh cậu, khẩu súng trường của cha cũng cậu giật lên. Họ thấy một trong hai con trâu cái đảo qua đảo lại, rồi bắt đầu loạng choạng chạy theo con trâu đực. Nathaniel thở phào:
- Bố nghĩ chúng ta đã có được gã đồ sộ ấy và con trâu cái của hắn ta, Chuck ạ. Bây giờ, tới lượt một con trâu con!
Ông cẩn thận nhắm nòng súng thứ hai vào một con nghé đang mất tinh thần quay lòng vòng. Và họ nghe tiếng bịch đùng đục của phát đạn trúng mục tiêu dội lại qua đồng cỏ. Nhưng cùng với những con trâu khác đang kinh hoảng, con trâu tơ bị thương ấy phóng như điên vào rừng, theo nhau biến mất trong bóng râm.
Chỉ có con trâu đực đang hấp hối đứng lại giữa đoạn đường chạy tới lùm cây. Hơi lảo đảo, nó quay mình, đưa mắt nhìn họ chằm chặp và ác liệt, phô hẳn cạnh sườn. Chuck đưa mắt dò hỏi ngó Jacques Devraux vừa từ mé rừng chạy ra đồng cỏ cùng với con trai của hắn và Flavia Sherman.
- Monsieur, có nên bắn bồi không?
Người Pháp lắc đầu, im lặng đưa tay lên trong một cử chỉ hàm ý: Chờ chút!
Trong hai hoặc ba phút, mọi người đứng nhìn chăm bẳm con trâu bị thương đang lắc lư trên bốn chân. Cuối cùng thượng nghị sĩ càng lúc càng mất kiên nhẫn, ông nói:
- Chuck, phát đạn ấy thật tuyệt. Nhưng bố nghĩ chúng ta phải bước tới dứt điểm nó.
Thêm lần nữa Devraux đưa tay lên:
- Đừng tới gần. Đứng tại chỗ mà bắn lần nữa.
Chuck nạp đạn. Hết sức thận trọng, cậu bắn cả hai nòng. Thêm lần nữa cậu khoái trá nghe đầu đạn cắm phập vào thân con vật đang đứng yên. Nhưng dù lảo đảo thêm trâu vẫn không ngã. Thay vào đó nó vẫn đứng, nhìn sửng các kẻ hạ sát mình trong khi máu từ hàm trâu nhểu từng giọt xuống cỏ. Chỉ tới khi Chuck lại nạp đạn và bắn lần thứ ba, con vật mới chầm chậm quị xuống đất, thân lật qua một bên khiến chiếc sừng vĩ đại của nó vẫy lên cong vòng và đường bệ trên đám cỏ cao.
Nathaniel nồng nhiệt vỗ lưng Chuck. Nắm cánh tay con, ông lật đật kéo cậu tới chỗ con vật vừa bị giết. Jacques Devraux theo sau, bước chậm hơn, với con trai mình, Flavia Sherman và Joseph. Paul Devraux chỉ vào lùm cây ven rừng nơi còn để lại dấu vết của đàn trâu vừa biến mất. Mọi người thấy lồ lộ tấm lưng đồ sộ màu đen của con trâu cái đang nằm chết, nghiêng một bên, chỉ cách lùm cây chừng mươi thước.
Khi họ tới gần chiếc sừng cong vòng của con trâu đực ngã quị, Nathaniel cầm bàn tay cậu con lớn giơ lên quá đầu, chúc mừng. Jacques Devraux đi theo họ, tay nắm chặt súng trong tư thế sẵn sàng nhả đạn cho tới khi thấy chắc chắn con vật to lớn ấy đã chết. Joseph và mẹ quan sát một chút rồi cả hai quay mình bỏ đi, tới xem xác con trâu cái.
Ngay lúc ấy, không người nào để ý thấy con nghé thình lình chạy ra khỏi lùm cây nó vừa núp. Rống lên thảm thiết và để lại một đường máu lóng lánh trên cỏ, con trâu non cuồng dại phóng như điên về phía trâu mẹ nằm chết, đúng vào lúc Joseph và Flavia đứng cúi đầu, đang chăm chú nhìn. Joseph bỗng ngước mặt lên, chợt thấy nghé con lao tới đột kích. Theo bản năng phản xạ tự nhiên, cậu giương súng lên, quì xuống. Nhắm dọc theo nòng súng, cậu thấy máu sủi bọt quanh miệng con nghé và nghe thật rõ hơi thở của nó phì phò vật vã theo từng tiếng rống gọi mẹ thê thiết.
Vào khoảnh khắc nổ súng, Joseph nhắm nghiền mắt. Nhưng sau khi bóp cò cậu không nghe tiếng nổ sắc gọn của khẩu Winchester vì âm thanh ấy chìm lỉm trong tiếng gầm của khẩu Mauser trên tay Jacques Devraux. Viên đạn của người Pháp xuyên thấu sọ trâu tơ, trổ từ chỗ ngay sau màng tang. Sức công phá xoáy mạnh cổ trâu, ném con vật xuống đất làm một đám bụi nhỏ bốc xoáy lên mù mịt, chỉ cách mười thước nơi Joseph còn quì bên người mẹ kinh hãi xanh mặt. Một dợn sóng rùng mình chạy dọc thân nghé rồi sau khi hắt ra hơi thở cuối cùng và sủi máu đầy miệng, nghé nằm yên.
Tiếp đó, không khí im lặng như hút chặt bìa rừng và đồng cỏ. Không người nào nhúc nhích. Trong vài giây, tình trạng yên lặng ấy làm nổi bật hoạt cảnh những hình dáng con người đứng rải rác, ngây dại giữa các hình hài xam xám đen và đầm đìa máu của ba con vật vừa bị họ giết. Đoàn người bắt đầu kéo tới đứng quanh chỗ con trâu tơ gục xuống. Không ai nói với ai lời nào cho tới khi bầy kên kên đầu tiên, đen đủi và trụi lông, bắt đầu lờ đờ lượn vòng bên trên mỏm đá nhô lên giữa đồng cỏ cách họ chừng năm chục thước.
Flavia mặt xây xẩm trắng bệch nhưng cố nở nụ cười với con trai thứ khi cậu đứng lên. Bà nói giọng thật thấp, trước khi có người khác tới trong tầm nghe:
- Joseph, con can đảm lắm. Mẹ cám ơn việc con vừa làm.
Joseph mặt còn tái nhợt, hai bàn tay vẫn run rẩy nhưng cậu cố giấu bằng cách nắm chặt khẩu súng trong khi mọi người tụ lại quanh hai mẹ con. Trong thinh lặng ngột ngạt, Nathaniel và những người khác nhìn xuống xác của con nghé. Chỉ lúc đó họ mới nhận ra dọc hai bên sườn trâu tơ vằn vện những vết xước dài, sâu và tím bầm mà con người không thể nào gây ra nổi. Devraux nói điềm tĩnh:
- Chắc nó bị cọp vồ cách đây chưa lâu. Nó đã hoá dại sẵn vì đau đớn. May cho tất cả chúng ta vừa thoát nạn.
Nathaniel bực bội cau mày ngó xuống con vật đã chết:
- Thật tệ hại quá, làm sao có thểø triển lãm với bộ da rách bươm khốn nạn như thế này!
Đưa chân lên dí dí đầu ủng vào hai chiếc sừng mới nhú của nghé, ông quay sang mỉm cười với bà vợ mặt đang trắng bệch:
- Tuy vậy, mình ạ, anh nghĩ cái đầu này sẽ thành một vật trưng bày tuy không lớn nhưng khác thường. Có thể là một vật kỷ niệm nho nhỏ cho em và cho ngôi nhà của mình nơi đồn điền — để nhớ mãi một khoảnh khắc không dễ gì quên, phải không?
Người Mọi nào cũng mang theo một cây dao cán dài, lưỡi dài và mũi cong, tại An Nam người ta gọi là “dao quắm”. Cầm lấy dao quắm của người thượng đứng gần ông nhất, thượng nghị sĩ cúi xuống xác con nghé. Thấy việc ông dự tính làm, Flavia Sherman vội vàng quay đầu nhìn chỗ khác. Nắm một bên sừng, Nathaniel chặt mấy phát, đứt phăng đầu nghé. Đưa chiếc đầu máu chảy ròng ròng đó cho người Mọi, ông hể hả cười với Devraux:
- Monsieur Devraux, tôi nghĩ mình phải đưa xe bò vô đây càng sớm càng tốt để mang con trâu đực và con trâu cái này về lột da. Bằng không, da chúng sẽ không chịu được lâu trong cái nóng này, phải không?
Tới xế chiều, Chuck hào hứng chạy vô túp lều hai anh em ở chung. Joseph đang ngồi thừ người trên chiếc giường xếp làm bằng vài bố, hai tay chống cằm, trầm ngâm nhìn ra đường mòn. Chuck nói sôi nổi:
- Joey ơi, mấy người lột da tìm thấy trong đầu con trâu tơ của em có hai viên đạn. Viên đạn của Monsieur Devraux xuyên thủng tai trái của nó nhưng nó lãnh một viên khác — của em — ngay chóc giữa hai con mắt!
Cậu sung sướng lắc lắc vai em:
- Sao, thế nào? Lúc này ai cũng biết rõ rồi, phải không? Cái thật sự quan trọng là em bắn trực diện.
- Cám ơn anh đã nói cho em biết.
Joseph ngước lên nói và mỉm cười nhưng nét mặt cậu không tỏ dấu thật sự vui mừng. Trong một thoáng, Chuck nhìn em, bối rối. Rồi cậu nhún vai quay lưng ra khỏi lều. Sau đó, cậu hăm hở chạy băng qua trại, ra mé sau để giúp người Mọi lột da con trâu to tướng do chính tay cậu giết, một mình, chẳng cần ai phụ giúp.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:29 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 11 -
Mặt trời vừa lặn bóng tối đã lẹ làng phủ kín trại săn. Chỉ trong vài giây, ánh sáng nhạt nhoà nhường chỗ cho đêm đen ẩm ướt mượt tựa nhung, như thể từ trên trời có tấm màn thình lình rủ xuống khiến mọi hình bóng bên kia ngọn đèn bão lập tức sống động hẳn lên theo những âm thanh đinh tai buốt óc của rừng đêm. Dưới bờ sông, một đạo quân ếch nhái nhỏ bé ồm ộp kêu vang bài ca khản đặc, đối chọi với tiếng râm ran rền rỉ không ngừng của lũ ve sầu giấu mặt. Từ chốn xa xăm đâu đó có con chim nào đó thỉnh thoảng thét lên thảm thiết như đang cơn đau đớn quằn quại.
Trong góc lều vải âm u dùng làm nhà bếp, Ngô Văn Lộc ngồi chồm hổm bên chiếc thùng đựng đồ đạc bị anh cố ý lật sấp để tạm dùng làm bàn viết. Tập trung tinh thần, mặt cau lại với bàn tay lóng ngóng, Lộc nắn nót viết chữ quốc ngữ, một biểu hiện ký âm tiếng An Nam bằng chữ cái la tinh. Một loại chữ được các giáo sĩ Kitô giáo phương tây lập thành từ năm 1620 để dùng vào công tác truyền giáo, Về sau nó được cải tiến dần và hiện trở thành thứ chữ thông dụng trên cả nước vì nó dễ tập đọc tập viết. Thỉnh thoảng anh ngừng viết, liếc mắt qua lỗ xỏ dây nơi tấm vải bạt dùng làm vách, dòm chừng Jacques Devraux coi hắn có còn ngồi với mấy người Mỹ săn thú quanh chiếc bàn đặt chính giữa bãi đất trống hay không.
Lộc đang nhân cơ hội họ ăn tối để cố sao chép thêm một tờ truyền đơn kêu gọi tham gia cách mạng nhằm mục đích chấm dứt sự đô hộ của người Pháp. Bản chính được soạn thảo bởi Việt Nam Quang Phục Hội, một hội kín do hoàng thân Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm hội chủ mà anh tham gia từ hơn ba năm trước, lúc bị buộc phải rời bỏ đất đai ruộng vườn của mình tại Long An vì không đóng nổi thuế. Trong nỗ lực tuyển mộ thêm đảng viên tại các làng mạc hẻo lánh quanh vùng rừng đất đỏ miền đông nam bộ, anh đã sao chép tờ truyền đơn đó ra hàng chục bản. Gấp rút ghi cho xong bản cuối trước lúc bữa ăn chấm dứt, Lộc nhìn qua khe lều, thấy vợ và hai con trai nhỏ của mình đang bước ra bãi đất trống thu dọn dĩa bát. Anh đặt cây viết chì qua một bên rồi vội vàng đọc lại những gì vừa chép:
“Hỡi Quốc dân đồng bào!
“Quốc dân đồng bào còn nhớ hay không: nước ta mất đã tám mươi năm rồi đó. Kìa hãy xem các nước Á Đông như Miến Điện, Phi Luật Tân đều đã thoát khỏi vòng nô lệ của Mỹ và Anh. Chỉ còn có một mình nước ta hiện nay vẫn để cho giặc Pháp đè đầu cỡi cổ. Giặc Tây dã man lấy cớ thực hiện sứ mệnh khai hoá để ăn cướp đất đai, ruộng đồng, hầm mỏ, biển cả, núi rừng của chúng ta. Chúng áp bức chúng ta bằng sưu cao thuế nặng. Chúng bóc lột tàn tệ kết quả lao động của chúng ta. Chúng đày ải, xử tử những sĩ phu và nghĩa sĩ yêu nước dám nổi lên chống lại chúng. Chúng ta bị đối xử như trâu như bò ngay trên đất nước của cha ông chúng ta. Hết thảy mọi quyền hành, hết thảy mọi lợi lộc, hết thảy mọi nguồn sinh nhai của chúng ta đều nằm trong bàn tay của bọn chúng.
“Hỡi hai mươi lăm triệu đồng bào! Chuyện ta ta phải tính sao bây giờ. Không lẽ cứ ngồi yên chờ chết, giương mắt trông của hết dân cùng. Vậy chúng ta phải kíp đoàn kết một lòng; phen này chúng ta quyết chẳng dong thứ cho quân thù. Hãy gia nhập hàng ngũ với chúng tôi để quang phục đất nước. Chúng ta không phải thuộc giống nói hèn nhát. Cha ông chúng ta trước đây đã bình Ngô, sát Thát, giữ gìn bờ cõi. Ngày nay, tại sao chúng ta cam chịu cúi đầu, làm tôi tớ Pháp như trâu như bò. Nếu chúng ta đoàn kết với nhau mấy chục triệu người, chắc chắn chúng ta phải thắng mấy ngàn thằng Tây ít ỏi. Nếu quốc dân đồng bào đứng chung một hàng ngũ, cùng chung một ngọn cờ, chúng ta sẽ đánh cho giặc Pháp thua không còn manh giáp, để quang phục xứ sở, xây dựng đất nước Việt Nam tự do độc lập và phú cường, noi gương Nhật Bản mà canh tân để nước ta không thua kém bất cứ nước nào ở đông á.
“Dù biết rằng thành hay bại là do bởi ý trời nhưng muốn nên công chuyện cũng phải do người gắng công. Vậy nay tôi có lời thành thật khuyên quốc dân đồng bào nên hợp sức đồng lòng, tham gia hàng ngũ với chúng tôi. Người xuất của kẻ xuất công. Người ở nước ngoài vận động, người ở trong nước thực hành. Khi đó, có thêm sự giúp tay tiếp sức của kẻ khác thì chúng ta còn lo gì việc sẽ không thành công. Miễn sao cốt ở sự hết lòng thì thôi, hy vọng chỉ trong vòng năm nay là chúng ta quang phục được đất nước.”
Nghe có tiếng chân bước bên ngoài lều Lộc lật đật xếp tờ sao và bản chính lại, giấu vô rương. Nhìn qua lỗ bạt anh thấy Mai, vợ mình, đang đi tới, tay bê chồng dĩa bát vừa thu dọn trên bàn.
Tuổi chưa tới ba mươi, vợ Lộc mặc váy dài sẩm màu, phía trước ngực và bụng buộc chiếc yếm vải rẻ tiền màu nâu nhạt, để lộ hai cánh tay, vai và lưng. Bộ mặt nhà quê bè bè đầy nhục cảm. Nét gợi dục ấy cuốn hút thêm bởi đôi mắt thường nhìn xuống với vẻ cam chịu và mái tóc đen, dày mượt mà, phủ xuống tận eo, làm mảng lưng trắng khi ẩn khi hiện. Chị đi chân đất, thân thể uyển chuyển tự nhiên theo từng bước nhịp nhàng của người quen gồng gánh.
Ngô Văn Lộc nhìn quá ra sau lưng vợ, thấy Jacques Devraux chợt nhướng cặp mắt đang nhìn dĩa thức ăn lên ngó theo chuyển động hông háng đong đưa của chị lúc chị từ bàn ăn đi vô lều bếp. Trong một hai giây, nét mặt của “chú bồi” trại săn người An Nam đanh lại khi ngó ông chủ của mình. Rồi anh bước khỏi lỗ nhìn lén, bắt đầu hí hoáy cọ rửa đống soong chảo vừa dùng vào việc nấu nướng bữa ăn chiều.
Khi Mai vào tới và nhúng tay vô chậu nước xà-phòng đặt bên cạnh chồng, Lộc thì thầm với giọng háo hức:
- Hôm nay thằng Devraux nói với tôi rằng hắn sắp đi Quảng Đông lần nữa. Lần này, hắn muốn tôi đi theo để lái xe cho hắn.
Bộ mặt an phận của Mai không tỏ phản ứng nào. Lộc nghiêng đầu sát tai vợ hơn để nhấn mạnh tầm quan trọng của tin đó, đồng thời liếc thật lẹ về phía người Pháp còn ngồi nơi bàn ăn:
- Có biết việc đó có ý nghĩa như thế nào không? Nghĩa là tôi có thể gặp những nhà cách mạng của ta đang lưu vong ở Quảng Châu bên Tàu. Vừa mới xảy ra vụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái, đồng bào ta thương cảm lắm. Các đồng chí của ta vừa uất hận, vừa lên tinh thần. Chúng ta may mắn đang ở vào vị trí được thằng Devraux tin tưởng.
Đứng bên chồng, Mai gật đầu đồng ý nhưng vẫn tiếp tục chà soong, không trả lời cũng không nhìn Lộc. Sau cùng anh hỏi, giọng có vẻ bực bội:
- Tại sao lại không để ý gì tới tin mừng đó? Bộ không hiểu tôi muốn nói cái gì sao?
Mai đáp gượng gạo:
- Có. Tôi hiểu chớ.
- Đang xảy ra chuyện gì vậy?
Trong một lúc Mai im lặng chà soong. Rồi chị lưỡng lự, hình như không dám chắc lắm điều mình muốn nói:
- Hôm nay thằng Jacques cư xử lạ lắm. Thường ngày hắn đâu có để ý gì tới tôi. Không hiểu vì sao hôm nay hắn ngó tôi tới hai ba lần — mắt hắn ngó thật là kỳ quái!
Đăm đăm nhìn vợ một lúc rồi Lộc lại dòm ra bãi đất trống. Anh chợt nhớ cái nhướng mắt của Devraux ngó theo lưng Mai, bị anh bắt gặp hồi nãy. Mai tiếp tục nói với giọng đều đều:
- Tôi nghĩ là con mụ Mỹ kia làm hắn khó chịu sao đó. Ở chỗ bàn ăn, thằng Jacques không chuyện trò gì với mụ ta — còn mụ ta thì lâu lâu lại ngó hắn một cách quái đản.
Lộc lật đật giải thích:
- Có lẽ lại tưởng tượng ra chuyện thôi. Tôi chắc chắn chẳng có việc gì phải lo lắng.
Lộc đưa mắt liếc xéo thật lâu, thấy Flavia Sherman đứng lên rời bàn ăn, bắt đầu đi thơ thẩn về lều của bà. Dù bà bước chầm chậm, anh vẫn nhận ra thái độ của bà có vẻ rất xao xuyến. Mấy lần bà đưa tay lên day day đầu như có ý nói rằng cái nóng quá ngột ngạt. Rồi bà dùng ngón tay chải tới chải lui mái tóc đen dài. Lộc quan sát bà hồi lâu nhưng bỗng có tiếng cười ré từng chặp, vang khắp trại, làm tâm trí anh xao lãng.
Lộc quay mình, thấy hai con trai, Đồng và Học, đang ngồi chồm hổm cạnh Paul và Joseph bên mé bên kia bãi đất trống. Tiếng kêu xa xôi của con chim cô độc nào đó họ nghe từ lúc mặt trời lặn lúc này hình như sầu thảm gấp bội. Lộc nhận ra đó chính vì Paul Devraux đang thổi ngọn cỏ rừng kẹp giữa hai ngón tay cái, bắt chước tiếng chim kêu thê thiết ấy. Anh thấy Joseph Sherman cũng đang vận hơi phồng má, thổi ra tiếng inh ỏi như kèn đồng, tranh đua với ngón nghề điêu luyện của Paul. Chính cái trò biểu diễn khôi hài đó của hai thiếu niên Pháp và Mỹ làm hai đứa nhỏ An Nam bò nghiêng ngửa và cười sặc sụa.
Đột nhiên sợ thái độ của các con có thể làm Jacques Devraux nổi quạu, Lộc vội lao ra bãi đất trống, tới chỗ bọn trẻ. Anh vừa chạy vừa nói lớn bằng tiếng Pháp:
- Monsieur Paul, xin cậu đừng chọc chúng nó cười nữa. Đã tới giờ chúng nó đi ngủ.
Anh chưa tới nơi, Paul và Joseph đã nhấc bổng hai đứa nhỏ — đứa mười một tuổi và đứa mười ba tuổi — cho mỗi đứa ngồi lên vai mỗi cậu rồi hò hét cổ vũ chúng giao đấu nhau bằng hai chiếc đũa lấy trên bàn ăn. Thêm lần nữa Lộc đưa mắt lo lắng nhìn về phía Jacques Devraux.
Thấy Lộc khẩn khoản mãi rằng đã tới giờ chúng phải đi ngủ, Paul phi như ngựa tế qua bãi đất trống với chú nhỏ Đồng túm chặt tóc trên đầu rồi thả nó, đang cười nắc nẻ, xuống manh trải dưới đất. Joseph cũng làm y như vậy với Học. Khi tiếng cười đùa giòn giã lắng xuống, Paul và Joseph chào hai chú nhỏ An Nam, chúc ngủ ngon. Rồi cởi áo sơ mi vắt lên vai, hai cậu đi tới cái bục bằng tre dùng làm bàn lột da, nơi Chuck vừa quay lại tiếp tục lột da con trâu đực của mình.
Trong lều, bên cây đèn bão, tâm trí của Flavia Sherman cũng bị xao lãng vì tiếng huyên náo vui nhộn ấy, không thể tiếp tục đọc sách. Bà bứt rứt đi tới cửa lều mở sẵn. Chiếc áo đi săn dán sát da lưng. Và bà cảm thấy mồ hôi tươm thành dòng, nhỏ từng giọt trong khe ngực. Từ một chốn xa xôi nào đó nổ lên tiếng sấm, rền thành chuỗi qua bầu trời đen kịt. Đột nhiên Flavia luồn các ngón tay vào trong tóc rồi đưa hai tay ôm chặt thái dương cho tới khi bặt hẳn tiếng sấm rền.
Ở chính giữa trại, thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman vẫn ngồi một mình bên bàn ăn nhâm nhi ly cô-nhắc thứ ba sau bữa ăn căng bụng. Trong lúc ăn tối ông uống thật nhiều rượu: “để ăn mừng con trâu mạnh bạo và ngon lành của Chuck”. Flavia nhận thấy kết quả là thái độ của chồng càng lúc càng ồn ào và cởi mở hơn. Mé xa bên kia trong khu vực trại, tại bục lột da, bà thấy thấp thoáng bóng dáng Jacques Devraux đang ở trần, bắt đầu tiếp tục công việc lột da. Bỗng dưng cảm thấy mình không thể ở lại trong lều thêm nữa, bà bước ra khỏi lều, đi thơ thẩn qua bãi đất trống.
Dừng chân bên chiếc xe bò hồi chiều chở ba xác trâu bị bắn gục từ đồng cỏ về, Flavia đứng quan sát mấy người đàn ông đang lột da chúng. Những người Mọi tóc xoăn đóng trên mình vỏn vẹn một mảnh khố. Khi họ di chuyển với cử động tràn trề nhựa sống, hai bắp đùi trần loang loáng dưới ánh đèn. Bên cạnh họ, thân thể hai con trai của bà nước da trắng nhợt cũng ánh lên màu gần như lấp lánh đen. Tấm lưng rộng bè bè của Chuck trong từng chuyển động đứng lên cúi xuống khi làm việc có thể cho thấy rõ lòng kiêu hãnh của cậu về việc đã bắn được con thú ấy. Đứng kế bên anh, Joseph vóc người mảnh khảnh hơn, cũng làm những động tác giống y như anh nhưng trông không nhiệt tình bằng.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:29 AM
Nửa trên thân trần của người Pháp chắc nịch, đầy sinh lực. Flavia đoán Jacques Devraux trạc tuổi mình. Các bắp thịt vai và cánh tay hắn săn chắc, gân guốc, hết co lại duỗi như những sợi thừng bện thật chặt, xoắn lấy nhau và tẩm lóng lánh những hạt mồ hôi như hạt đậu từ trong da ứa ra. Dưới ánh sáng lung linh của mấy cây đèn bão treo bốn phía, Flavia có thể thấy một vết sẹo trắng nhợt, bóng láng, do săn bắn hoặc chiến trận, từ yết hầu hắn trổ xuống, chạy vắt qua sườn. Trong vài phút người đàn bà Mỹ đứng yên lặng ngắm hắn, lòng lại thấy rúng động những rạo rực gần như đã lãng quên từ lâu. Còn Devraux, nếu có để ý tới sự có mặt của Flavia hắn cũng không để lộ chút dấu hiệu nào.
Khi họ đã lắt và móc hết mỡ bên trong da trâu, Jacques Devraux chỉ dẫn những người khác cách xát bột thạch tín để xua ruồi nhặng, không cho chúng bu vào da. Dần dần, mùi hôi nồng nặc của xà-phòng thạch tín cùng với đủ loại mùi khác, mùi mồ hôi người, mùi mỡ thú vật, quyện vào nhau, lơ lửng thấm đẫm không khí. Từ chốn xa xa, lại rền lên tiếng sấm như cộng thêm âm hưởng trầm hùng vào dàn nhạc đinh tai buốt óc của rừng đêm nhiệt đới. Trong vài giây, Devraux ngẫng đầu, nghe ngóng.
Đoán trước thế nào cũng mưa, Devraux bảo người Mọi móc da trâu lên sào và chuyển gấp chúng vào lều vải bạt dựng kế bên. Tại đó, hắn tháo vài bao muối, ra lệnh mấy người thượng khởi sự sấy khô da trâu. Thấy họ làm đúng ý mình, hắn cầm chiếc sọ con trâu đực lên, mang ra bờ sông. Lội xuống nước bùn và ấm tới ngang đầu gối, hắn rút con dao săn to bản gài bên đai lưng ra, bắt đầu lóc thịt.
Người đàn bà Mỹ cũng rảo bước tới bờ sông, thầm lặng quan sát hắn. Khi những mảnh vụn thịt sống trôi lềnh bềnh theo dòng nước, Flavia thấy mặt nước sủi bọt trắng vì những đàn cá háu ăn đang tranh mồi. Ngây ngây và tởm lợm, bà miên man ngắm cảnh tượng rùng rợn đó, môi hé mở, mắt long lanh như xuất thần. Kế đó bà đưa mắt nhìn người Pháp, cất tiếng nói dịu dàng bằng ngôn ngữ của hắn:
- Monsieur Devraux, thật vinh dự cho chúng tôi khi ông vì cuộc thám hiểm của chúng tôi mà làm việc đêm hôm như thế này.
- Nếu chúng tôi không bắt đầu sấy da lúc này, nội vài giờ nữa thôi cái ẩm và cái nóng sẽ làm hỏng hết mọi công khó của chúng ta.
Ngừng tay lâu một chút, Devraux nhìn thẳng mặt Flavia rồi cúi xuống tiếp tục lóc thật sạch sọ trâu bằng những đường dao gọn gàng, chính xác. Bà nói, giọng thật trầm:
- Tôi cũng muốn cám ơn ông vì điều ông đã làm chiều nay. Phát súng giết con trâu bị thương đó thật tuyệt vời.
Người Pháp lội khỏi mặt sông, lên đứng trước mặt Flavia. Bà đứng mé bờ phía trên hắn, chân đi ủng, hai tay thọc trong túi chiếc quần cụt bó sát người. Trong một thoáng, Devraux nhìn bà bằng tia nhìn ngắm nghía như hắn đã từng lén lút ngó bà trong buổi tiếp tân tại dinh thống đốc. Rồi hắn tra dao vào vỏ, vừa nói vừa nhìn chiếc sọ toả ánh lập loè dưới bàn tay trái.
- Madame Sherman ạ, tôi nghĩ có lẽ bà sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nếu lúc này bà quay về khu trại của mình. Chúng tôi sắp tự tay liệng bỏ máu và mở trâu trong khi tắm sông.
Khi Devraux ngước mắt nhìn Flavia lần nữa, đôi môi mỏng của hắn đã trở lại đường lằn khắc nghiệt thường ngày; lập tức bà quay mình cất bước. Từ trong lều, bà nghe hắn gọi mấy người Mọi và hai con trai của bà. Lát sau, tất cả đều cởi quần áo, trần truồng phóng mình xuống sông. Trong vài phút, bà nghe tiếng nước họ té nhau, tiếng cười vang mặt sông, rồi khu vực trại săn dần dần im ắng trở lại.
Chuck và Joseph, người đỏ ửng, tóc rối bù ướt đẫm, ló đầu vào lều chúc mẹ ngủ ngon. Sau khi các con về lều riêng, bên cây đèn bão Flavia cố mở sách ra đọc. Nhưng lúc này nghĩa chữ trong sách không đủ sức mạnh át tiếng giòn giã của những khẩu súng săn bà nghe nổ trở lại trong óc não mình. Qua con mắt tâm trí, bà thấy lại thân xác đồ sộ nặng nề của con trâu đực đang vật vã trong cỏ với cái chết dữ dội của nó, thấy thêm lần nữa con nghé mất mẹ đang cuồng dại lao tới phía bà, và bầy kên kên đen đủi trụi lông từ lưng chừng trời lờ đờ chao xuống. Hết thảy những hình ảnh ấy xô đẩy nhau trong tâm trí Flavia làm lòng bà lâng lâng một cảm giác xao xuyến mơ hồ, càng lúc càng dâng lên thật cao theo cơn bão đang tụ về.
Khi có tiếng Jacques Devraux cùng chồng mình cụng ly rượu sau cùng bên bàn ăn giữa bãi đất trống, Flavia cố lắng tai nghe cuộc nói chuyện của hai người. Vẫn không nghe ra họ nói gì nhưng rõ ràng người Pháp lâu lâu mới đệm vào tiếng ậm ừ để ngắt quãng lối nói lê thê lè nhè của Nathaniel. Cả hai trò chuyện theo kiểu rời rạc đó trong ít phút rồi khi nghe họ chào nhau đi ngủ, Flavia vội vàng chui vào mùng bên chiếc giường dành riêng mình. Bà nằm xuống, để nguyên quần áo.
Bên trong lều mé bên kia khu trại Ngô Văn Lộc cũng nghe hai người ấy chào chia tay nhau. Anh tiếp tục cảnh giác canh chừng Jacques Devraux trong khi vất vả sao thêm một tờ truyền đơn vận động tham gia cách mạng. Rồi ngừng viết, anh dòm chừng người Pháp đang đi về phía lều mình. Phía cuối lều, Mai ở trần, ngồi xổm rửa mình bên thau nước. Nghe Lộc thình lình xuỵt tiếng báo động, chị đứng lên, lẹ làng vớ chiếc khăn che bộ ngực trần. Liếc nhìn lui, Mai thấy chồng luống cuống giấu vội cây bút chì và tờ giấy anh đang viết. Mấy giây sau, Jacques Devraux đột nhiên thò nửa người vào tấm liếp vải che cửa lều. Mai thẹn thuồng cuống cuồng quay mặt nhưng vẫn cảm thấy tia mắt của người Pháp làm rờn rợn da lưng của mình. Chốc lát sau, chị nghe hắn nói cụt ngủn:
- Bảo Mai hai phút nữa tới lều tôi. Tôi muốn ra lệnh về việc nấu nướng ngày mai. Nói nó đem theo cả kim chỉ.
Khi Devraux đi rồi, người đàn bà An Nam quay sang nhìn chồng. Ánh mắt của chị run rẩy:
- Tôi sợ quá. Trước đây có bao giờ hắn gọi tôi tới vào giờ này ban đêm đâu!
Tránh đôi mắt vợ, giọng Ngô Văn Lộc cam đành:
- Nếu chúng ta không làm theo lời hắn tôi có thể mất cơ hội đi Quảng Đông, mà việc đó rất quan trọng cho đại cuộc. Mặc áo vô rồi đi lẹ lên. Tôi tìm kim chỉ cho.
Cẩn thận không làm giật mình các con đang nằm co hai chân ngủ trên chiếu, vợ của Ngô Văn Lộc mặc yếm, vuốt tóc rồi lủi thủi ra khỏi lều, không nhìn chồng.
Nathaniel Sherman vấp chân suýt té ngoài cửa lều. Flavia nghe tiếng chồng làu bàu chửi thề và sờ soạng hồi lâu nơi tấm liếp chặn cửa. Vào được bên trong, ông chậm chạp tháo giày, cởi quần áo rồi lê người tới bên chiếc giường dành riêng cho vợ. Nathaniel nhếch mép cười với bà trước khi lảo đảo đáp người xuống giường.
Bên ngoài, tiếng sấm rền lớn hơn, mưa bắt đầu nhỏ từng giọt kêu tí tách nơi mái lá trên đầu hai vợ chồngï. Nathaniel nghiêng đầu về phía Flavia, gần tới độ bà ngửi ra mùi cô-nhắc trong hơi thở ông. Thượng nghị sĩ nói, lưỡi mười phần líu hết chín:
- Mình ơi! Em vẫn là một phụ nữ… xinh đẹp… nhất thế gian! Anh biết rằng không phải lúc nào anh cũng làm đúng vai trò một người chồng mà anh thật sự muốn làm với em... nhưng như vậy... không có nghĩa là anh không tán thưởng, không ngưỡng mộ nhan sắc tuyệt trần của em... Em có biết cho... như vậy... không...?
Flavia nhắm nghiền mắt, cố giấu thật kín cảm giác ghê tởm khi Nathaniel áp chiếc miệng rộng mở lên đôi môi bà và bắt đầu sờ soạng hàng nút trên chiếc áo đi săn bốn túi bà đang mặc. Sau đó, ông luồn tay vô nịt ngực của Flavia, bắt đầu xoa nắn một bên ngực. Nhưng thay vì cảm ứng, bà nằm bất động và chờ, như bà vẫn thường làm. Từ từ, cử động của bàn tay Nathaniel lơi dần, nhịp thở của ông đều đặn. Cuối cùng, khi ông nằm yên, Flavia gỡ tay ông khỏi y phục xô lệch của mình, trườn ra khỏi bên dưới người ông. Lập tức, ông lăn ngửa người ra giường của bà, nằm xuôi chân xuôi tay, bắt đầu ngáy vang.
Ngay lúc đó, mưa bắt đầu nặng hạt, rơi lộp độp rồi đổ ào ạt xuống mái lá bên trên làm chìm lĩm mọi âm thanh khác của đêm. Trong một hai giây, Flavia lưỡng lự. Rồi không nhìn quanh, bà giựt tung sợi dây buộc liếp cửa, bước ra ngoài lều.
Mưa tuôn xối xả đầm đìa mặt đất khô. Chỉ trong mấy giây, tóc Flavia ướt đẫm, dán sát hai bên má. Chớp loé hình chữ chi trên đầu làm toàn khu trại săn sáng rỡ như ban ngày. Tiếp đó, qua màn đêm dày đặc, tiếng sấm rền tới, điếc tai. Trong ánh chớp chói lòa Flavia chạy băng mình qua bãi đất trống lênh láng nước, không dừng lại, cho tới khi đến trước cửa lều của Jacques Devraux.
Bên trong, cây đèn bão treo cao giữa lều vẫn lung linh sáng. Vì Devraux không buông mùng, ánh mắt Flavia lập tức rơi trên thân thể màu vàng mảnh dẻ của vợ Ngô Văn Lộc đang căng ra bên dưới người hắn, dán sát mặt giường. Lúc bà bước vào, Devraux đang ngó về phía liếp cửa. Hắn chửng lại khi thấy Flavia. Bà im lặng chằm chặp nhìn đáp trả tia mắt hắn. Trong cùng một khoảnh khắc, bà vừa kinh hoảng vừa rúng động khắp người. Thấy Flavia không bỏ đi, Devraux nhịp tiếp, nhịp sâu hơn, ban đầu chậm, sau dồn hết sức mạnh, nhịp nhanh hơn. Không biết bao nhiêu lần hắn dồn xác thịt của hắn dập xuống thân thể người đàn bà An Nam. Trong khi cơ thể chuyển động càng lúc càng nhanh, Devraux kềm ánh mắt hắn gắn chặt vào mặt Flavia Sherman, thách thức.
Đứng chôn chân tại chỗ, Flavia nhìn lại Devraux như thể bị thôi miên. Bà chăm bẳm ngó da mặt hắn đang căng ra chầm chậm trên xương gò má. Dần dần, ngang chỗ mấy sớ thịt thắt lưng trần truồng của hắn, nhịp dập xuống thúc bách hơn, loạn cuồng hơn. Khoảnh khắc cuối cùng của cơn co giật, nét mặt Devraux dãn ra, dàn rộng thành một chiếc mặt nạ dát mỏng. Giữ nguyên tư thế bất động trong một lúc, lưng hắn ưỡn lên, răng hắn cắn chặt, môi trề ra, miệng há hốc im lặng giữa phút quằn quại xuất thần. Rồi người đàn bà An Nam bắt đầu khóc nấc. Sau cùng, Devraux dịu lại, cất mình khỏi người chị. Vẫn thầm lặng khóc tủi thân, từ trên giường chị trườn mình xuống mặt đất nhớp nhúa. Lật đật quơ mấy mảnh váy và yếm bị xé tả tơi, chị vọt ngang người đàn bà Mỹ, chạy vào mưa.
Vợ Lộc vừa bỏ chạy, Flavia Sherman đưa tay sờ soạng búp nịt của mình. Nhưng tay bà run lẩy bẩy không kềm lại nổi. Phải mất khá lâu bà mới cởi xong quần áo. Jacques Devraux ngắm nghía Flavia khi bà từ trong bộ y phục ướt đẫm bước ra. Dưới ánh đèn bão chập chờn, cơ thể trần truồng của Flavia lấp lánh nước mưa pha lẫn mồ hôi. Khi thấy tia nhìn thèm khát trong mắt hắn, bà khuỵu đầu gối quì xuống bên hắn.
Với sự dịu dàng Flavia không ngờ, người Pháp vòng hai tay ôm người bà, đỡ bà lên bên hắn trên giường. Trong một thoáng, cùng ánh kỳ lạ loé lên trong đôi mắt đỏ ngầu, Devraux nâng đầu Flavia trong hai bàn tay mình, tìm khuôn mặt bà. Rồi hắn kéo bà sát vào mình, hôn thô bạo lên môi bà.
Flavia bắt đầu rên lên khi hắn vuốt ve thân thể bà. Và khi hắn nhập vào bà, bà thét lớn như thể đau đớn cực độ. Cùng với tiếng gầm của cơn bão đang ập tới âm vang đầy tai mỗi người, cả hai buông xả thể xác cho sự ham muốn dữ dội sau nhiều năm cô độc, nay kích động mê loạn với những nhịp điệu điên cuồng trong cơn xuất thần mãnh liệt, hết đợt này tới đợt nọ.
Đôi khi Flavia nức lên như đang quằn quại thống khổ và dù cơn bão nhấn chìm hầu hết tiếng rên rỉ của bà, Joseph vẫn nghe loáng thoáng tiếng mẹ kêu rấm rứt khi cậu đứng ngoài túp lều của Jacques Devraux trong trời mưa bão như trút nước.
Không ngủ được Joseph chống liếp cửa ngược vào phía trong lều mình, đứng ngắm cảnh tượng bão và giật mình trông thấy mẹ lao người qua bãi đất trống ngập nước dưới ánh chớp chói lòa. Nghĩ rằng có thể mẹ cần mình giúp, cậu lật đật mặc quần áo, tất tưởi chạy theo mẹ. Nhưng khi tới bên ngoài túp lều của người Pháp, cậu dừng lại, hốt nhiên sợ hãi.
Thoạt đầu, khi mới nghe tiếng Flavia thét lên, Joseph nghĩ hình như mẹ mình đang thống khổ. Và tưởng bà ngã bệnh, cậu dợm chân muốn rướn tới mấy bước nữa như có ai thúc sau lưng. Rồi cậu cảm thấy choáng váng mặt mày khi nghe ra, một cách khủng khiếp, dấu vết hoan lạc trong những tiếng kêu rên như nghẹt thở kia. Âm thanh ấy chớp nhoáng chiếu lại trên màn hình tâm trí Joseph cảnh sắc mịt mùng nơi nhà sàn sóc thượng chiều hôm qua. Paul với cổ họng nghèn nghẹt. Joseph hổn hển lăn lộn. Tiếng thở dài của người nữ bên cạnh như tiếng vũ trụ rùng mình. Trong vài phút, Joseph đứng yên bên ngoài lều, mình mẩy ướt sủng, lắng nghe những tiếng rên rỉ cuồng nhiệt đó với cảm giác càng lúc càng hiu quạnh. Rồi cậu tê dại quay người, bì bỏm lội qua khu trại lênh láng nước về lại lều mình.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:32 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 12 -
Quang cảnh thanh bình xa xa như chốn địa đàng rộng mở bên kia cửa sổ chiếc Citroešn B-2 mui cong của Jacques Devraux khi xe đong đưa, lúc lắc vượt hết đỉnh đồi này sang triền dốc nọ trong vô số ngọn đồi trùng điệp nối tiếp nhau dọc Con Đường Cái Quan.
Ở một phía ven con đường thiên lý cổ xưa chạy dọc duyên hải từ nam ra bắc nối liền Sài Gòn và Hà Nội, những vách đá dựng đứng nhìn xuống bờ biển lấp lánh bãi cát trắng xoá với rèm buông là những hàng dừa xanh mướt lá rủ dịu dàng. Xa xa phía dưới, trên mặt phẳng như gương của Biển Đông, những thuyền mành buồm cánh dơi kiểu An Nam lờ lững chập chờn trông như đồ chơi trên một mặt hồ màu lam ngọc. Trong đất liền, những lườn đất đỏ cao nguyên Trung kỳ chỉa các đỉnh màu tía lên trời chiều. Bên ngoài xe, phong cảnh núi cao và biển rộng xinh đẹp lạ thường nhưng cả Joseph Sherman lẫn mẹ đều chỉ đưa mắt nhìn lướt một lần.
Từ lúc rời trại săn sáng sớm nay hai mẹ con vẫn chìm đắm trong những nghĩ tưởng riêng tư của mỗi người, hầu như chẳng ai trò chuyện với ai. Flavia Sherman còn vật vã với những cảm giác rộn ràng đã làm bà thao thức rất lâu sau khi về lại lều của mình giữa rừng khuya mưa bão đêm qua. Vào lều, thấy chồng vẫn nằm ngáy trên chiếc giường dành riêng cho vợ, bà sang giường của ông, nằm xuống, duỗi thẳng người. Nhưng giấc ngủ không đến. Trước khi còn lâu mới rạng sáng, bà quyết định mình phải rời trại săn sớm nhất có thể được.
Lúc Nathaniel Sherman thức dậy, nhận ra mình đang nằm ở giường của ai, ông thẹn thùng nhìn vợ rồi đồng ý ngay lời yêu cầu của Flavia được dùng xe hơi ra kinh thành Huế, nơi hai ngày nữa hoàng đế An Nam sẽ cử hành lễ hội Tết Nguyên Đán. Joseph tình nguyện đi theo mẹ. Nhưng khi xe chuyển bánh chưa được bao lâu, Flavia nhận ra thái độ xa cách của con trai đối với mình. Tình trạng đó khiến lòng bà vốn đang xốn xang lại càng thêm hoang mang.
Trong khi Ngô Văn Lộc lái xe chở hai mẹ con nhắm hướng phương bắc, Flavia càng muốn cưỡng lại chừng nào, tâm trí lại càng miên man nghĩ ngợi chừng đó tới cơn mê loạn giữa trận bão rừng khuya đêm qua, tới nỗi ray rứt sợ hãi rằng mình không thể nào dứt bỏ được tính bốc đồng điên rồ của mình. Cứ mỗi lần nhớ lại, thân xác bà thêm lần nữa đầy ứ cảm giác bừng bừng, ngây ngất và ngột ngạt tới độ không thể ung dung ngồi thật yên trên nệm xe lâu quá vài phút.
Flavia thấy mình đang tìm về ngày tháng son trẻ, truy tầm cho ra lý do giải thích những ám ảnh vị kỷ và mù loà đã và đang siết chặt mình kể từ khi cả gia đình tới xứ nhiệt đới thuộc Pháp này. Bà tự hỏi không biết căn nguyên chính có phải vì sự phá sản và cái chết của phụ thân do tự tay ông gây ra trong cuộc khủng hoảng giá cả bông gòn tại Louisiana năm 1889, lúc bà mới lên hai. Nếu ông còn sống có lẽ người mẹ khánh kiệt của Flavia đã không cố van nài con gái chấp nhận lời cầu hôn của người thừa kế cơ nghiệp thuốc lá Sherman. Và có lẽ những thói tục gò bó nơi đồn điền Queen Anne của dòng họ Sherman đã không áp đặt lên người thiếu nữ khốn khó mười bảy tuổi nếu bà mẹ mắc bệnh trầm cảm của cô ta không quá hổ thẹn vì những điều kiện sống túng quẩn trong ngôi nhà thuê ở vùng giáp ranh miền Creole tiểu bang New Orleans.
Chuyến đầu tiên của chuỗi đi săn khắp thế giới nhằm sưu tập dã thú cho Nhà Bảo tàng Vạn vật học do nhà Sherman mới xây tặng — một miếu đền mới nhất trong các miếu đền được dựng lên để tán dương sức mạnh và tính cương cường nam nhi của dòng dõi Sherman — đối với Flavia, đã dường như hứa hẹn một cuộc tiêu khiển thú vị, thoát khỏi lề thói trì độn thường ngày tại Tidewater vùng Virginia và ngôi nhà có tính tiện nghi chính trị tại Georgetown. Nhưng rồi vẻ lạ lùng của vùng nhiệt đới cùng những sảng khoái muôn hình muôn vẻ của nếp sống văn hoá trong đó bà đã lớn lên và gần như đã quên lãng khiến trong lòng bà càng lúc càng bốc thật cao cảm giác được giải phóng khỏi tâm trạng vỡ mộng của một thời quá khứ nơi quê nhà.
Sự bất chợt lao mình vào rừng xanh với tâm tư đầy xáo trộn trong cái nóng ngần ngật và ẩm ướt của Sài Gòn đã làm Flavia nhận biết mãnh liệt về thân xác mình hơn bao giờ hết, kể từ thuở dậy thì khi da thịt rạo rực như hâm hấp sốt. Có lẽ chuyến đi này cũng nhắc nhở bà một điều hiển nhiên và kinh hoàng rằng chỉ vài năm nữa thôi, sắc đẹp của bà sẽ tàn phai. Tất cả những niềm hy vọng và những nỗi sợ hãi bị phóng đại thêm lên ấy kết hợp nhau làm phát sinh một tâm trạng buông thả vốn hoàn toàn xa lạ đối với bà, để cuối cùng, nó tự tìm thấy điểm tột đỉnh trong cơn bão rừng đêm qua.
Flavia nhắm mắt lại trong khi ký ức đó thêm lần nữa sống động tràn ngập tâm trí. Bà lại cảm thấy lòng mình dấy lên nỗi hoang mang sợ hãi khi nghĩ rằng tia lửa khởi động điên rồ dữ dội ấy có thể sẽ tiếp tục sống bên trong con người mình lúc cuộc đời sắp bước sang tuổi trung niên. Trong khi mường tượng mình có thể cảm thấy ngọn lửa cuồng nộ sắc lẽm đó đang bùng cháy tận chốn sâu thẳm nơi cung lòng mình, người bà lại thêm lần nữa bồn chồn bứt rứt trên nệm xe.
Ở đầu ghế đằng kia, Joseph cũng thấy mình đang vật vã với một cảm xúc hoang mang không chịu nổi. Cậu không thể kết hợp ổn thoả những tiếng rên rỉ kinh hoàng và loạn cuồng cậu nghe đêm qua với bất cứ điều gì cậu từng biết về mẹ. Cho tới thời điểm đó, đối với Joseph, bà lúc nào cũng là nơi cậu ẩn náu, rất bình yên và rất an ủi. Trong con người tưởng như hoàn hảo và đầy vẻ tự mãn của mẹï, bà luôn luôn là một nguồn suối yên tâm không bao giờ cạn. Hễ bất cứ khoảnh khắc nào Joseph cần tới, bà sẵn sàng tuôn trào lòng từ ái của một người mẹ, tắm mát con với một tình thương không chút ngại ngần.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:33 AM
Việc cha ưu ái Chuck khiến Joseph ngày càng hướng về mẹ, tìm khuây khoả. Nhưng đêm qua, một sự vị kỷ nào đó ngoài sức tưởng tượng, đã kích động mẹ tự đẩy đưa mình vào một hành vi đào ngũ kinh hoàng. Sự cố đó cũng xô đẩy Joseph bắt đầu rơi vào một tình huống rối loạn, xáo lộn sâu xa vì những nguyên cớ cậu không thể hiểu. Dù người mẹ ngồi cách cậu chỉ chưa đầy nửa thước ở đầu kia ghế xe, đang cố mỉm miệng cười với con, nhưng cậu cảm thấy mình đã bị phản bội, không cắt nghĩa nổi. Joseph quả thật không thể hiểu thấu những gì vừa xảy ra và lý do của chúng. Nhưng cậu cảm thấy mọi sự sẽ chẳng bao giờ còn như cũ. Có cái gì đó xa cách đã xuất hiện giữa hai mẹ con và sẽ chẳng bao giờ tháo gỡ nổi cái đó. Joseph cảm thấy cô độc, không gì bù đắp nổi, và người phụ nữ đang ngồi bên cạnh cậu đột nhiên có vẻ là một người hoàn toàn xa lạ.
Thỉnh thoảng, hai mẹ con lại bắt gặp những đám dân quê An Nam gồng gánh đi lại xuôi ngược không ngừng giữa chốn phố chợ và đồng ruộng hoặc túa ra từ những đình làng hay chùa chiền nhỏ bé. Joseph cảm thấy những gì xảy ra đã, bằng cách nào đó, đang từ từ ràng buộc cậu dính chặt mãi mãi vào xứ sở đẹp kỳ lạ, nóng như thiêu như đốt này và về mọi mặt, quá đổi xa lạ với cậu.
Những hình ảnh quẫn bách mấy ngày vừa qua bắt đầu chỗi dậy trong tâm trí Joseph. Thêm lần nữa cậu thấy gã tây thuộc địa tàn nhẫn vung roi quất tới tấp mấy người tù đang khuỵu xuống giữa càng xe kéo chở đá thải tại Sài Gòn. Cậu nhớ lại cảm giác kinh hoảng khi tưởng rằng mình đang thấy cảnh tượng các cu-li bị tàn sát, nằm chết la liệt trên bến cảng bên sông Sài Gòn lúc con tàu chở gia đình cậu sắp cập bến. Cậu nghe thêm lần nữa tiếng huỵch của chiếc Citroešn húc trúng bụng thằng bé nhà quê trên đường lên trại săn.
Niềm hưng phấn Joseph cảm thấy hôm kia trong cuộc phiêu lưu quá hấp dẫn với cô gái Mọi lúc này bỗng dường như làm cậu hổ thẹn. Cậu bắt đầu tự hỏi phải chăng thái độ nghênh ngang quá đáng của mình sau đó chính là nguyên cớ trực tiếp đưa tới tình thế mẹ và cậu đột nhiên lâm phải hiểm nguy nơi đồng cỏ. Cậu khẳng định rằng chính thái độ nghênh ngang ấy đưa tới cái chết của ba con trâu rừng bất hạnh.
Trước khi hai mẹ con rời trại săn, Joseph thấy da của con trâu đực và con trâu cái bị lóc sạch sự sống, treo tựa mấy miếng giẻ rách đen đủi rũ rượi trong lều sấy, máng kế bên là những chiếc sọ không mắt, trắng hếu của chúng. Và bỗng dưng cậu cảm thấy phiền muộn với ý nghĩ rằng mình chính là kẻ chịu trách nhiệm.
Chỉ mới hôm qua thôi, những con vật đường bệ ấy còn vễnh sừng nối đuôi nhau đi không chút nghi ngại qua đồng cỏ cao với dự tính cả bầu đoàn sẽ đến một chốn im mát nào đó, sung sướng đằm mình bên nhau dưới một vũng nước hoang dã trong cái nóng ban ngày. Thế rồi theo cơn bốc đồng khùng điên của mình, cậu leo lên cây. Bằng ống nhòm của Chuck, cậu xác định vị trí của chúng. Nếu cậu không nghênh ngang vì hưng phấn, đàn trâu ấy đã không bị người Mọi xác nhận và giờ đây cả gia đình chúng hẳn đang hạnh phúc tắm mình trong một vũng nước cạn nào đó dưới bờ sông.
- Joseph, có chuyện gì vậy?
Tiếng nói của người mẹ thình lình bẻ gãy dòng suy nghĩ của Joseph; cậu bắt đầu co mình lại. Biết rằng không thể nói ra những gì trong tâm tưởng, cậu làm như không nghe câu hỏi của mẹ, tiếp tục nhìn ra cửa xe.
- Có phải vì con không thể bắn con nai ấy? Có phải con vẫn bực mình vì bố gọi con là “con trai của mẹ”?
Giữ cho mặt mình đừng hướng về phía mẹ để bà khỏi nhận ra cậu không nói hết sự thật, Joseph trả lời:
- Có lẽ... có phần nào thôi. Con cũng đang nghĩ tới mấy con trâu. Con cảm thấy như thể con là kẻ lên án xử tử chúng vì chính con tìm ra chúng. Những bộ da đó sẽ được cho lên tàu chở về nhà rồi nhồi mạt cưa và đặt trong tủ kính nhà bảo tàng của chúng ta. Nhưng chẳng ai màng tới việc nếu chúng còn sống thì sao. Giá như chúng ta để chúng tiếp tục sống có phải tốt hơn không?
Từ đầu ghế đằng kia người mẹ nghiêng mình qua bóp tay con trai, nhưng cảm thấy lòng nguội lạnh với mẹ, Joseph không phản ứng. Nhìn nghiêng khuôn mặt con, Flavia để ý thấy vẻ tái nhợt, hai mắt đỏ và khô trên đó, bất chợt một nỗi sợ hãi mới làm thái dương bà đập mạnh:
- Đêm qua con ngủ có ngon không Joseph? Trận bão có làm con khó ngủ không?
Joseph trả lời mẹ thật lẹ:
- Không. Con ngủ rất ngon... Thật ra con mệt vì những việc xảy ra lúc ban ngày.
Ngồi yên quan sát con trong một lúc, Flavia hy vọng Joseph sẽ quay đầu qua ngó thẳng mặt bà và mỉm cười. Nhưng cậu vẫn xoay lưng lại với mẹ, tiếp tục ngó mông lung ra bên ngoài cửa sổ xe.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:35 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 13 -
- Chúng tôi tin rằng điều quan trọng nhất là sống hoà hợp với các sức mạnh tự nhiên của sự sống.
Trần Văn Hiếu nói nhẹ nhàng và hoa tay về phía các đền đài cung điệän mái ngói hoàng lưu ly ở Đại Nội, vòng Hoàng thành bên trong của vòng Kinh thành Huế. Joseph tròn xoe mắt, ngẩng cao đầu nhìn những con rồng bằng sứ đang dữ dằn nhe răng gầm gừ, uốn mình dọc gờ mái và trên nóc Điện Thái Hoà: “hoà hợp tuyệt vời”. Trong ánh nắng chói chang của sớm mai đầu tiên năm Ất Sửu, chúng lấp lánh và lung linh rực sáng trông như thể được đúc bằng vàng thật. Joseph nói, giọng xuýt xoa:
- Đẹp quá! Nhưng Monsieur Hiếu, tại sao lại dành quá nhiều ưu đãi cho chỗ này vậy?
Cả hai vừa vượt qua cầu Trung Đạo bắc ngang hồ sen, bước theo Dũng Đạo dẫn tới Đại Triều Nghi, sân rồng phía trước điện. Hai bên lối đi lát gạch, có những hàng cây thẳng tắp, rợp bóng mát, dẫn ngang các hồ sen và những hoa viên có lan can vây quanh. Joseph mặc bộ vét-tông trang trọng màu xám, quần chẻn ngang đầu gối. Người An Nam bên cạnh cậu đội sẵn mão quan có ngấn kiểu đời Minh, đi hia và mặc áo bào lụa thêu, bộ triều phục dùng tham dự cuộc lễ bày tỏ lòng trung quân với hoàng đế An Nam vốn được cử hành hằng năm vào dịp Tết Nguyên Đán.
Trần Văn Hiếu trầm lặng nói tiếp:
- Đây là nơi cảm nhận được sự hội tụ của các sức mạnh sinh động nhất trong một hiệp nhất trọn vẹn. Bạch Hổ và Thanh Long vốn thường xuyên xung khắc nhau nhưng tại chốn đế đô, cả hai cùng yên nghỉ thuận hoà ở chính vị trí trên đó đặt ngai vàng của đức vua, nơi nội điện Thái Hoà.
- Bạch Hổ và Thanh Long làø gì vậy Monsieur Hiếu?
Vị quan lưỡng lự tìm lời rồi mỉm cười với cậu bé Mỹ:
- Chúng tôi tin rằng hai con vật ấy là nguyên lý dương và nguyên lý âm của sự sống. Bạch Hổ là nguyên lý âm, có tính phủ định và đe dọa, còn Thanh Long là nguyên lý dương, có tính khẳng định và nhân từ. Chúng cũng tượng trưng cho... Đông và Tây.
Chưa hết thắc mắc, Joseph dương đôi mắt tọc mạch ngó Trần Văn Hiếu:
- Nhưng làm sao ông có thể nói chính xác rằng chúng hoà hợp nhau ngay tại vị trí này?
Chung quanh hai người, những quan chức khác mặc áo bào lụa lộng lẫy, chân đi hia và đầu đội mão cùng một kiểu với Trần Văn Hiếu, đang nhẹ bước băng qua các hoa viên và đi thẳng lên sân điện. Bên các tường thành xưa cũ vây quanh bốn phía, lính hộ thành An Nam nghiêm cẩn đứng gác. Tay cầm súng trường nòng thật dài, đầu đội nón hình nấm, trên chóp lấp lánh một que nhọn bằng đồng, trông họ như thể những người vừa bước ra từ một trang sách phiêu lưu ký. Họ đeo quanh cổ miếng vải ngắn che cho lưng và ngực khỏi nắng gió, đồng thời gia trọng vẻ uy nghi của đồng phục thị vệ. Giờ đây, miếng vải ấy rung nhè nhẹ trong gió sớm. Người nào cũng đi chân trần nhưng Joseph để ý thấy bắp chân họ quấn xà cạp màu vàng — màu vừa rồi Trần Văn Hiếu giải thích với cậu rằng chỉ đặc biệt nhà vua và các cận thần mới có quyền dùng. Vị quan trả lời câu hỏi của Joseph:
- Monsieur Joseph ạ, thật khó giải thích gọn gàng ngay lúc này. Một số nhà thông thái người An Nam chúng tôi dành trọn đời mình để nghiên cứu môn “phong thủy”. Theo chữ nho, hai tiếng đó có nghĩa là ‘gió’ và ‘nước’. Nhà cửa của người sống cũng như mồ mả của kẻ chết chỉ nên xây dựng trên tâm huyệt của cuộc đất hội tụ và hoà hợp được các sức mạnh của tự nhiên.
Trần Văn Hiếu mỉm cười thêm lần nữa:
- Chúng ta hãy bắt đầu với cái gì đó đơn giản. Cậu đã thấy vẻ đẹp trầm lặng của sông Hương đang chảy qua trước mặt Kinh thành. Mùi hương cỏ hiếm quyện với mùi lau sậy của nó bồng bềnh êm đềm trong gió mang lại sự tịch lặng và an tĩnh cho các bến bờ ven dòng sông ấy. Và trên các mặt hồ nơi đây trổ nhiều hoa sen. Hoa sen tượng trưng cho tinh khiết, biểu tượng của Huế. Dù nẩy mầm và lớn lên trong bùn, sen trở thành phẩm vật xinh đẹp tuyệt vời, tỏa hương thơm rất đổi dịu dàng. Chúng tôi tin rằng dưới ảnh hưởng của hương hoa ấy người thiện đương cự nổi cái ác. Và cậu trông kìa!
Ngưng nói, ông đưa tay chỉ quá lên phía trên vòng tường thành màu vàng của Hoàng thành, tới dáng hình thang xanh thẩm của ngọn núi đơn độc hiện lên nơi phía nam:
- Ngọn núi đó được gọi tên là Ngự Bình, nghĩa là “Bình Phong của Hoàng Đế”. Mọi thần khí uế tạp từ phương nam vận hành thẳng hướng ra phương bắc đều ngọn núi ấy chặn lại, không cho xâm nhập Kinh Thành.
Thêm lần nữa Trần Văn Hiếu ngưng nói rồi tay vẫy liên tiếp mấy hướng:
- Cậu có thấy chung quanh chúng ta đây có nhiều dấu hiệu tốt: cung nữ tay cầm nhành cây đang trổ lộc... con rắn quấn quanh cành sen... chim phụng trong tư thế kính bái nguyện cầu...
Joseph nhìn theo mấy hướng vị quan vẫy tay nhưng cậu chỉ thấy những lùm bụi và cây cỏ đang đưa hương trong các vườn hoa ngay hàng thẳng lối. Cậu vừa nói vừa mỉm cười thích thú:
- Monsieur Hiếu ạ, mắt cháu chả thấy rõ gì cả. Nhưng nơi này đẹp quá, cháu tin chắc những gì ông nói là có thật.
Cậu bé Mỹ bắt đầu trúng bùa mê của cổ thành An Nam ngay khi đi ngang con hào sâu ngào ngạt hương sen, dài gần hai mươi ba thước, sâu bốn thước, dẫn tới cửa Thượng Tứ để vào Kinh thành - thành chốn đế đô. Kinh thành cao sáu thước, dày hai chục thước, vòng ngoài của ba cái “thành” đồng tâm. Vòng kế tiếp là một thành màu vàng nhỏ hơn, cao bốn thước, dày hai thước rưỡi, gọi là Hoàng thành hay Đại Nội. Kinh thành xây toàn bằng gạch, giữa đổ đất, có chu vi gần mười cây số vuông, do Hoàng đế Gia Long khởi đắp từ năm 1805 nhưng mãi tới năm 1824 đời vua Minh Mạng mới hoàn tất. Các tường thành, cung điện và đền đài của nó kiến trúc hoàn toàn mô phỏng đúng theo kiểu thức được các hoàng đế nhà Minh bên Trung Hoa ưa chuộng. Tuy thế, ngày nay, kinh đô Huế là nơi độc nhất trên thế giới còn giữ ba vòng thành: Kinh Thành, Hoàng Thành Đại Nội và Tử Cấm Thành. Ngay cả Bắc Kinh cũng chỉ có Hoàng Thành Đại nội và Tử Cấm Thành. Người ta đến Bắc Kinh chỉ để làm du khách thưởng ngoạn một cổ tích đồ sộ, còn đến Huế để làm hành giả tìm về quá khứ của phương đông, để được thở đậm đà và sống miên man trong bầu không khí nghiêm tĩnh mơ màng của một chốn đế đô phương đông.
Từ sáng sớm, Trần Văn Hiếu đã đứng sẵn chờ cậu trên lối vào thành Đại Nội, dưới bóng im mát của Ngọ Môn: cửa chính của cung vua, trông từa tựa kiểu Thiên An Môn đồ sộ ở Bắc Kinh, nhưng lầu Ngũ Phụng ở Huế trông xinh xắn, tao nhã và sinh động hơn nhiều. Chính giữa mái lầu lợp bằng nhiều lớp ngói hoàng lưu ly, hai bên bằng ngói thanh lưu ly, nó như chim phượng hoàng xoãi năm liếp cánh, phủ phục lên Ngọ Môn của Hoàng Thành Huế.
Khi được tin Phu nhân Sherman đến Huế, Thống đốc Nam Kỳ đã chuẩn bị cuộc gặp gỡ này. Ông mời hai mẹ con cùng đi với đoàn các quan chức tùy tùng của ông để tham dự lễ Nguyên Đán của triều đình. Và đồng thời, ông sắp xếp cho Trần Văn Hiếu dẫn Joseph đi tham quan các cung điện.
Từ khi rời trại săn, lần đầu tiên tâm tình u uất của Joseph khởi sự tan biến khi vị quan có chòm râu lưa thưa này bước đi chầm chậm bên cậu trong đôi hia nghi lễ, kể thuộc lòng những danh xưng kỳ bí của các toà nhà đang toả ánh lung linh trong nắng sớm. Cửa Ngọ Môn... Điện Thái Hòa... Thái Miếu... Thế Miếu... Điện Phụng Tiên... Cung Diên Thọ... Cung Trường Sanh...Vườn Cơ Hạ... Và một nơi bí nhiệm hơn mọi nơi đối với tâm trí non trẻ vốn giàu óc tưởng tượng của Joseph, đó là cái thành thứ ba, ở chính giữa, được canh phòng cực kỳ cẩn mật — Tử Cấm Thành. Nó được đặt tên theo Sao Bắc Đẩu, ngôi sao cai quản một cách tượng trưng các tầng trời. Cổ Thành này màu tía, cao ba thước bảy, dày bảy tấc, chu vi gần một ngàn ba trăm thước, nằm phía sau điện Thái Hòa. Trần Văn Hiếu giải thích: cũng giống hoàng đế tại Bắc Kinh, đức vua An Nam ở một nơi hoàn toàn cách biệt, bên trong vòng tường thành của Cấm Thành, khu vực chưa hề có người nước ngoài nào được phép vào. Cung điện hiện nay nhà vua ngự là lầu Kiến Trung, ở chính giữa Tử Cấm Thành, tuy các vật dụng hầu hết được tân trang theo lối hiện đại của phương tây nhưng mặt ngoài vẫn giữ nguyên hình thức cổ kính của phương đông.
Những con kỳ lân bằng đồng và lũ hạc thiếp vàng đứng chầu phía trước cung điện cùng những ông quan bằng đá to như người thật xuất hiện im lặng giữa mấy hàng cây đại đang toả hương hoa sứ thơm ngát khi họ vào tới. Vừa đặt chân lên Đại Triều Nghi, sân rồng cao cao trước điện Thái Hoà, cả hai bất chợt bắt gặp một đoàn ca công và vũ công cung đình đang diễn tuồng với y trang lóng lánh màu vàng, đỏ, lục và lam ngọc. Những thiếu niên mặt không lộ chút cảm xúc. Người ta chỉ phân biệt được nam hay nữ bằng chiếc mão khít khao họ đội trong lúc biểu diễn những bước đi cầu kỳ theo một vũ điệu phương đông thanh nhã, hoà trong tiếng nhạc réo rắt nỉ non được phụ họa bằng âm thanh chiêng, gõ và đàn đá cổ sơ.
Những cảnh tượng ấy, những thanh âm ấy tự chúng làm mê mẩn thần hồn thơ dại của Joseph. Thêm nữa, cậu nghe từ bên kia óc tưởng tượng của mình vọng lại tiếng nói của quỉ thần, thì thầm qua những ông quan thấp nhỏ, từ đầu đến chân tạc bằng đá, đang như lê từng bước sát bên người cậu. Tất cả các cái đó hiệp với những cung điện có tường thành bao bọc, biến nơi đế đô này thành một chốn bí nhiệm đầy mê hoặc, rồi lắng đọng ở tận cùng đáy tâm tư cậu. Tới lúc Trần Văn Hiếu giao Joseph lại cho sĩ quan tùy viên của thống đốc ở bên ngoài Điện Thái Hoà, cậu gần như sẵn sàng tin tưởng rằng thế nào mình cũng sẽ thấy hai con cọp trắng và rồng xanh cùng nhau quấn quít bên nhau, quanh chân vị quân vương.
Bên lối vào, mẹ của Joseph và Thống đốc Nam Kỳ đứng chờ sẵn cùng với Khâm sứ Pháp tại Trung kỳ, kẻ dẫn đầu đoàn viên chức tùy tùng và quan khách người Pháp. Trong đoàn người mẫu quốc ấy, các sĩ quan quân đội mặc binh phục thuần một màu xanh da trời trong khi các viên chức dân sự mặc lễ phục, áo vét dài tới đầu gối và mũ chóp cao— chapeaux haut de forme.
Theo truyền thống, có nguyên tắc qui định rằng nữ giới không được phép tham quan các nghi lễ cung đình nhưng tạm thời, nguyên tắc đó được miễn áp dụng một lần, khi thống đốc nhân danh mẹ cậu trình bày nguyện vọng. Tỏ lòng đáp tạ, Flavia Sherman chọn bộ xiêm y trang nhã nhất, mặc vào dịp long trọng và hiếm hoi này. Bộ lễ phục màu xanh nước biển thùy mị với áo đầm dài thướt tha quét đất, voan che mặt dưới chiếc mũ vành nhỏ, vừa vặn và tiệp với màu áo, che phần trên khuôn mặt của bà.
Flavia thở ra nhẹ nhỏm khi thấy chuyến đi dạo quanh các cung điện của cậu con trai làm mắt cậu sáng long lanh trở lại với nụ cười chào mẹ rất tươi và đậm đà tình thân như thường lệ. Khi hai mẹ con xếp hàng dọc với các quan khách khác đi tới gian chánh điện đặt ngai vàng, bà thì thầm vào tai con:
- Mọi sự có chút gì đó như trong truyện thần tiên, phải không?
Joseph nao nức gật đầu đáp lời mẹ. Cậu bé Mỹ sung sướng khi Khâm sứ dẫn đoàn tùy tùng tới thẳng chỗ điện tiền. Cậu thấy mình chỉ đứng cách có mấy bước chiếc ngai vàng trên đó Hoàng đế Khải Định đang ngự. Nhà vua vóc người mảnh dẻ, ẻo lã như phụ nữ. Toàn thân ông phủ kín trong chiếc vương bào lộng lẫy bằng lụa thêu. Chân ông đi đôi ủng da thuộc màu đen, ống dài kiểu vua chúa nhà Minh Trung Hoa, đặt vào chỗ lõm trên đầu cái bệ gỗ tạc hai con chó màu vàng đang nằm. Hai tay ông cầm hốt ngà có gắn chiếc kính *** mặt nhỏ, theo Trần Văn Hiếu giải thích, đó là vật ông thường dùng che mặt để tượng trưng cho lòng khiêm tốn và sự hạ mình trước hương hồn các đấng tiên vương. Ở phía bên kia ngai vàng, hai quan hoạn An Nam mặc triều phục, đứng nghiêm trang. Mỗi người cầm một chiếc quạt lông chim cán dài, cùng đều nhịp quạt chầm chậm vào khoảng không bên trên đầu đức vua, để làm dịu và thoáng bầu không khí ông đang thở.
Nơi bức tường đằng trước ngai vàng, các cánh cửa đã được mở toang. Từ sân điện lót đá, ánh mặt trời sớm mai chói lọi tràn vào nội điện làm chiếc vương miện đúc và gò bằng vàng đặc, khảm ngọc quí, chớp lấp lánh và tỏa ánh hào quang mỗi khi nhà vua nhúc nhích đầu. Ngoài sân điện, hết thảy các quan thượng phẩm triều đình xếp hàng đứng sẵn. Trong hàng dọc đầu tiên, Joseph thấy có thân phụ của Trần Văn Hiếu. Ông đứng ở vị trí thứ mười đếm từ hai hoàng thân mặc hoàng bào màu đỏ dẫn đầu cuộc lễ thần phục năm nay.
Thống đốc nói, vờ như thì thầm nhưng cố ý rót rõ từng tiếng vào tai những ai đứng quanh đó:
- Bà và cậu có để ý thấy chúng ta đang đứng ngay bên trái ngai vàng không? Theo phương đông, phía bên quả tim của nhà vua chính là chỗ danh dự nhất.
Joseph liếc thật lẹ đức vua xem ông có nghe không. Và cậu ngạc nhiên thấy, dưới vương miện như chiếc mũ trùm đầu đang phủ khít khao vầng trán, mặt ông có vẻ bồn chồn. Trong khi họ chờ bắt đầu nghi lễ, một hai lần cậu thấy quốc vương An Nam đưa mắt thấp thỏm nhìn về hướng của họ. Thỉnh thoảng, nhà vua chấm nhẹ bộ mặt xanh xao đang rịn mồ hôi của mình bằng chiếc khăn tay lụa ông giấu trong một ống tay áo bào rộng thùng thình. Sau cùng, khi Khâm sứ Pháp bước ra đứng đối diện ngai vàng, hoàng đế An Nam mới hạ ánh mắt nhìn xuống đôi ủng bóng loáng. Ông lắng tai nghe, mắt không nhìn vào mặt người Pháp.
Khâm sứ cất giọng sang sảng bằng tiếng nước mình:
- Thưa hoàng thượng, thật vinh hạnh cho cá nhân tôi được đại diện Quốc gia Bảo hộ để chuyển lời chúc mừng của tổng thống nước Pháp tới hoàng thượng tôn quí và hết thảy đình thần của hoàng thượng trong dịp thiêng liêng và đầy hy vọng này...
Tác người cao lớn, phần thân thể bên trên phình ra, to như thùng tô-nô, kính một mắt đeo bên con mắt trái, tướng mạo của Khâm Sứ bệ vệ trong lễ phục màu vàng và xanh. Thanh kiếm nghi lễ đeo bên trái nằm yên trong vỏ kiếm mạ vàng. Hàng dãy huy chương với cuống ruy băng và mấy lớp huân chương bội tinh kết thành mấy tràng hoa móc lủng lẳng hai bên ngực áo chẽn. Khi nói, ông đặt một tay lên đốc kiếm như có ý làm nổi bật, một cách tinh tế, cái sức mạnh vũ khí người Pháp chưa bao giờ sở hữu nhiều như bây giờ:
- Chín năm qua, kể từ ngày hoàng thượng kế vị trên ngai vàng An Nam vào năm 1916, vương quốc của ngài tiếp tục an hưởng sự bảo hộ đầy bao dung và vị tha của nước Pháp, chúng tôi chân thành hy vọng rằng tình trạng giao hảo tương xứng cho cả đôi bên này sẽ tiếp diễn mãi mãi trong một tương lai lâu bền vì lợi ích của cả hai dân tộc chúng ta...
Trong lúc đọc lời chúc mừng trong tờ giấy cầm trước mặt mình bằng bàn tay đeo găng trắng, thỉnh thoảng Khâm sứ liếc nhà vua qua chiếc kính một mắt. Giọng ông oang oang tự tin, không tương xứng chút nào với lòng tôn kính cực độ ông hàm chứa trong ngôn từ. Ngược lại, quốc vương An Nam hình như rụt người xuống sâu hơn trong lòng ngai nạm vàng, dù ông biết rõ những tinh tế có tính ngoại giao trong diễn từ của người Pháp ấy chẳng những không có tác dụng mà còn chẳng làm thay đổi chút nào cái thực tế rằng ông và người của ông đang mắc nợ — một cách không đền đáp nổi — ý chí và ý thích của người Pháp.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:38 AM
Tuy thế Joseph hoàn toàn không để ý chút nào tới những tinh tế ấy vì lối nói oai vệ và nặng phần trình diễn của Khâm sứ đã đẩy tâm trí cậu đi lang thang. Cậu kính sợ đưa mắt nhìn quanh nội điện trang hoàng lộng lẫy. Một rừng cột gỗ lim to lớn, đỏ thắm, chống đỡ mái điện. Quấn quanh thân cột là những con rồng năm móng hình như đang gầm gừ dữ tợn cái bóng phản chiếu của chúng trên sàn điện bóng loáng lót bằng gạch sứ vuông vắn. Những chiếc lư đồng đời Minh chạm trổ trang nhã và những chiếc độc bình đặt trên các bàn nhỏ bằng gỗ chạm lộng, kê sát mỗi chân cột.
Kế đó, trước sự ngạc nhiên của Joseph, khi Khâm sứ vừa hạ tờ giấy xuống, từ chỗ khuất đằng sau đoàn tùy tùng, một viên chức trẻ bước thật nhẹ, âm thầm xuất hiện. Bằng giọng đều đều, anh ta thông ngôn bài diễn văn ra tiếng An Nam cho nhà vua và triều thần nghe. Dịch xong, viên chức ấy lại biến mất, âm thầm như khi xuất hiện.
Joseph thấy nhà vua rút từ trong tay áo bào ra một cuộn giấy cuốn theo kiểu Tàu. Với giọng xuỵt xoạt, run rẩy vì kích động, từ trên ngai vàng ông đọc đáp từ bằng tiếng An Nam. Nhưng không giống cách đọc của quan Khâm sứ Pháp lúc nãy, giọng của Hoàng đế Khải Định lắp bắp, căng thẳng. Một đôi lần, ông dừng lại giữa câu để nuốt nước miếng. Nhà vua vừa đọc xong, một vị quan già dưới cằm có chòm râu bạc lưa thưa, từ tốn xuất hiện từ phía sau một chiếc cột khác bên cạnh ngai vàng.
Vị lão quan ấy trịnh trọngï thông ngôn bài diễn văn ngắn ngủi của đức vua ra tiếng Pháp với những trọng âm nghe dịu dàng và êm ái. Có mấy lần Khâm sứ nhè nhẹ gật gù, hạ ánh mắt xuống như thể chuẩn nhậm sự đề cập có tính cách sẵn sàng chu toàn bổn phận đối với “Nước Pháp bảo hộ vĩ đại”. Khi việc thông dịch chấm dứt, Khâm sứ nghiêng đầu trang trọng hơn, không cúi đầu. Ông chăm chú nhìn từng chút khi nhà vua đứng lên khỏi ngai vàng. Thấy nhà vua cúi thấp đầu xuống về hướng mình, ông khẻ hé miệng cười đáp lại một cách mãn nguyện. Chờ cho nụ cười hài lòng ấy toả đều khắp khuôn mặt, ông mới quay lưng, đường bệ sãi chân bước trở về đứng chung với đoàn tùy tùng.
Kế đó Khâm sứ đưa tay khoát nhẹ có ý bảo các viên chức và quan khách của mình nên lùi một hai bước, đứng vào lối đi giữa các dãy cột tiếp giáp nhau, chừa một lối trống đằng trước ngai vàng và mặt tiền điện. Sau đó một chút, ca công và nhạc công kéo lên xếp thành hàng trước các bức tường hai bên sân điện. Và nhạc trổi lên một khúc nỉ non rền rỉ.
Vừa nghe điệu nhạc ấy, hai hoàng thân dẫn đầu vội vàng sấp mình xuống, ngay dưới bậc thềm Điện Thái Hòa, thẳng trước ngai vàng, trán áp sát sân gạch với thái độ cực kỳ tôn kính. Đằng sau hai ông, các thượng quan, người nào cũng cầm trên tay một chiếc hốt nhỏ có gắn kính *** mặt giống như của đức vua, lẹ làng phủ phục và đê đầu, giống hệt và còn kính sợ hơn hai hoàng thân dẫn đầu. Họ bái lạy thấp hết mức có thể, nhoài người trên các phiến đáù lát sân điện.
Joseph thấy Trần Văn Hiếu và thân phụ bày tỏ lòng trung quân bên cạnh các quan thượng phẩm An Nam khác. Họ sấp mình phục lạy ba lần sát đất theo lệnh xướng của quan thượng thư Bộ Lễ. Suốt thời gian ấy, các nhạc công và ca công đánh chiêng trống và tiếp tục một điệu nhạc não nùng kỳ dị. Trên ngai vàng, vua Khải Định ngồi yên không nhúc nhích, chấp nhận sự bày tỏ một cách khốn khổ lòng trung quân của các quan mà trên mặt ông không thoáng chút cảm giác nào.
Thống đốc Nam Kỳ nói qua vai của Joseph với giọng nửa đùa nửa thật:
- Người Tàu gọi nghi thức ấy là “khấu đầu” nhưng người An Nam gọi là “làm lạy”!
Ông nói tiếp rồi nhăn nhở cười tự tán thưởng lời giễu cợt của mình; một số người Pháp chung quanh họ mỉm miệng cười theo:
- Nhưng dù có gọi gì đi nữa, nó cũng không dễ chịu cho lắm đối với vài hoàng thân lớn tuổi hơn trong đám huynh đệ nhà ông ấy. Đôi khi tôi tự hỏi chẳng biết có bao nhiêu người trong bọn họ đang âm mưu để được thay vào chỗ của ông ấy!
Ánh mắt Joseph không rời thân phụ của Trần Văn Hiếu khi ông vất vả nhoài người đê đầu xuống mặt sân lần thứ ba. Trông ông có vẻ khôi hài nếu trên bộ mặt nhăn nheo và hãnh diện ấy không hằn sâu nét thành kính lẫn trang trọng suốt thời gian ông khởi sự và hoàn tất những nghi thức rõ ràng là một nỗ lực ghê gớm so với sức khoẻ đang trong thời mòn mỏi của ông.
Nhóm quan nào thực hiện xong nghi lễ liền chầm chậm bước giật lùi về hai bên sân điện, nhường chỗ cho nhóm khác. Hết đợt này tới đợt nọ, các triều thần trong áo bào lụa đủ màu sắc lượn dập dềnh trên sân lót gạch màu xám dưới ánh nắng vàng chói lọi của mặt trời sớm mai.
Nhóm cuối cùng khấu đầu bái lạy long nhan xong vừa lùi ra, điệu nhạc của nhạc công cung đình đột nhiên chuyển nhịp nhanh hơn. Trước con mắt sửng sốt của Joseph, các lối vào lập tức bị trám kín bằng những thớt voi xám lực lưỡng, lắc lư. Bành voi phủ một vuông vải vàng lớn, có đính tua. Chót vót trên bành, một quản tượng người An Nam đội mũ lác, ngồi dạng chân đằng sau tai voi.
Mười hai con voi ầm ầm lê chân qua sân đá, dàn ngang một hàng sát thềm, trước cửa điện. Bị quản tượng thọc bằng dùi tre đầu bịt sắt, lũ voi chầm chậm quì xuống, hướng mặt về phía ngai vàng, và tiếp tục quì như vậy trong đôi ba phút. Vòi voi ve vẩy ra đằng trước đúng theo nhịp điệu của tiếng nhạc inh tai. Xong, với vẻ lừ đừ đường bệ, từng con lần lượt đứng lên rồi theo nhau lùi xuống khỏi sân điện.
Con voi sau cùng vừa lê chân khuất tầm mắt, bỗng dậy lên hàng loạt tiếng nổ đì đùng. Joseph giật bắn người. Những tiếng ròn rã ấy vang lên nghe như thể ngàn khẩu súng trường cùng bắn một lượt. Những tiếng nổ liên tiếp và không ngừng, tạo thành một cuộc bắn phá liên tục. Sân điện ngập ngụa khói trắng dày đặc. Mặt trời hóa ra mờ mịt. Joseph hoang mang nhìn vô điện, có ý chờ xem nhà vua và Khâm sứ vọt chạy tìm chỗ núp. Nhưng hoàng đế vẫn ngồi yên trên ngai và Khâm sứ lại nhướng nhướng cặp lông mày hoan hỉ về phía một đồng sự của ông.
Thấy thái độ của Joseph, Thống đốc thét vô tai cậu, lớn hơn tiếng lủng tai thủng óc ấy, cậu mới nghe ra:
- Đừng lo. Đó chỉ là cách đón mừng Tết theo truyền thống của người An Nam. Họ tin rằng những tiếng nổ ghê gớm này sẽ làm hết thảy tà ma quỉ dữ kinh hãi và bảo đảm họ gặp may mắn suốt cả mười hai tháng tới.
Nhìn ra bên ngoài lần nữa, Joseph lúc đó mới nhận ra khói và những tiếng nổ ấy phát ra từ các sào tre dài được bố trí sẵn chung quanh sân điện. Trên mỗi đầu ngọn sào buộc một chùm lá non mới nẩy lộc. Lủng lẳng từ ngọn tới gốc sào, treo san sát những phong pháo quấn bằng giấy. Lúc này, tất cả đang nổ vang đinh tai điếc óc. Cậu thở phào, đưa tay lên bịt tai mình:
- May quá! Thế mà cháu cứ tưởng lại bắt đầu Chiến tranh Thế giới lần nữa.
Kế đó, từ một khu vực khác trong hoàng thành ầm ầm dội lại tiếng súng thần công mừng năm mới, đánh dấu kết thúc cuộc lễ. Đức vua chầm chậm bước xuống ngai vàng. Ông đưa tay lên bắt tay Khâm sứ theo lối châu Âu. Cả hai đi bên nhau, dẫn đầu triều thần và quan khách vào khách sảnh.
Ban nhạc ngoài sân điện bắt đầu tấu bài “Marseillaise”— quốc thiều Pháp. Thị vệ nội cung mang ra rượu sâm banh ướp lạnh để quan khách nâng ly chúc mừng hoàng thượng và năm mới. Đồng thời cũng mang ra những tráp nạm ngọc đựng cau trầu kèm theo bình vôi cho các vị quan Nam Triều muốn ăn trầu, và những hộp khảm đá quí đựng thuốc điếu hoặc xì-gà cho các quan khách Pháp muốn hút thuốc.
Trong lúc Joseph đang nhâm nhi sâm banh, Trần Văn Hiếu thầm lặng xuất hiện bên mẹ cậu, với một người An Nam rất trẻ. Vị quan trịnh trọng cúi đầu chào và lịch sự nói bằng tiếng Pháp:
- Madame Sherman, tôi xin được hân hạnh chào mừng phu nhân và công tử tới tham quan triều đình An Nam. Tôi hi vọng bà cảm thấy có phần nào thích thú cuộc lễ Nguyên Đán của chúng tôi.
Tới lượt mình, người phụ nữ Mỹ mỉm cười đáp lại:
- Thật rất vinh dự cho tôi được có mặt nơi đây, đặc biệt khi tôi được biết rằng thông thường nữ giới không được phép quan chiêm nghi lễ cung đình.
- Truyền thống hẳn là mười phần quan trọng nhưng thật không tốt nếu cứ sống mãi với quá khứ. Như bà đã thấy, người Pháp đang mang nhiều tiện ích tới cho xứ sở chúng tôi,
Nói xong vị quan nghiêng mình ra hiệu cho người An Nam trẻ tuổi bước tới để ông giới thiệu:
- Madame Sherman, tôi xin được giới thiệu với bà một thân nhân trong gia đình bên vợ tôi, Monsieur Đào Văn Lật. Cậu Lật là em ruột của nhà tôi, và đang làm ký giả cho một tờ báo ở Huế. Cậu từng sống ở Paris, tốt nghiệp Đại học Sorbonne. Khi nghe nói có người Mỹ hiện diện trong buổi lễ hôm nay cậu tỏ ý mong ước được gặp bà.
Tuổi mới ngoài hai mươi với thân hình thấp nhỏ, Đào Văn Lật nhanh nhẹn chìa tay cho Joseph và mẹ cậu. Người thanh niên mảnh khảnh ấy có ánh mắt nhìn thẳng, sắc bén cùng vầng trán cao của một người học rộng. Khác với những người An Nam hiện diện đều mặc triều phục, Lật bận áo dài đen cổ truyền tà hơi cao, quần dài trắng y phục dân giả, chân đi giày đen và trên đầu đội chiếc khăn đóng cũng màu đen.
Joseph háo hức hỏi:
- Monsieur Lật ạ, anh có sẽ viết về cuộc lễ hôm nay trên tờ báo của anh không vậy?
Người An Nam trả lời với nụ cười mai mỉa:
- Tôi sẽ viết rất ngắn gọn, y như đã viết năm ngoái và năm kia rằng: “Cuộc lễ truyền thống bày tỏ lòng trung quân đã được cử hành tại Điện Thái Hoà”. Tôi sẽ không cho phép mình viết rằng chúng tôi thật sự chào đón Khâm sứ của nước Pháp.
Trần Văn Hiếu vội vàng xen lời:
- Cậu em của nhà tôi đây tuy được giáo dục tại Pháp nhưng cậu là người duy lý tưởng với quan điểm phi chính thống, vốn không được tôi cùng nhiều đồng bào của chúng tôi chia sẻ. Cậu Lật ạ, cậu nên cẩn trọng về những gì mình phát biểu.
Nói xong, với nụ cười căng thẳng, vị quan xin phép rút lui. Ông bước nhanh tới đầu kia khách sảnh, trò chuyện với một nhóm quan chức Pháp. Đào Văn Lật nói với vẻ thản nhiên:
- Điều quan sứ thần vừa nói đó không chính xác. Nhiều người trong xứ sở này không chia sẻ loại tình cảm anh rễ của tôi dành cho nước Pháp.
Flavia Sherman thắc mắc một cách lịch sự:
- Nhưng tại sao anh không viết về cuộc lễ này theo cách anh muốn?
Người An Nam liếc đằng sau một chút, xem có bị ai nghe lén không. Rồi anh hỏi nhỏ:
- Thưa phu nhân, bà không là người Pháp, vậy tôi nói thành thật có được không ạ?
Người phụ nữ Mỹ gật đầu. Đôi mắt Lật bỗng nhiên long lanh và giọng anh sôi nổi hẳn:
- Ở đây chúng tôi không có tự do báo chí. Báo sẽ bị đóng cửa, nhà báo sẽ bị bắt nếu họ làm mất lòng các chủ nhân ngoại quốc của chúng tôi. Chúng tôi không được tự do theo đuổi niềm tin chính trị của mình. Chúng tôi không được tự do hội họp hoặc đi lại. Thậm chí thư chúng tôi viết cũng có thể bị kiểm duyệt, chặn lại và tịch thu ngay tại nhà bưu điện!
Joseph thắc mắc:
- Nếu được tự do nói điều mình muốn, anh sẽ viết thế nào về cuộc lễ hôm nay trên tờ báo của anh? Em thấy cuộc lễ này thật hấp dẫn. “Làm lạy” là một nghi lễ rất xưa. Tại những xứ khác người ta chỉ có thể đọc nó trong sách sử ký thôi.
Lật lại liếc thật nhanh quanh sảnh đường:
- Đúng thếù Monsieur Joseph. Những nghi lễ do các vua Tàu dạy cho chúng tôi ấy ngay tại Trung Hoa mười bốn năm nay cũng đã không còn cử hành, kể từ lúc cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên chấm dứt triều đại Mãn Thanh. Lời giáo huấn về quan hệ quân thần của Khổng Tử chỉ có ý nghĩa nếu đấng Thiên Tử được chúng tôi bày tỏ nghĩa vụ và lòng trung quân hôm nay, tiêu biểu xứng đáng cho hùng khí và phẩm giá của dân tộc. Đã từ lâu người Pháp phá hoại thẩm quyền của Khổng Tử, cái vốn là nền tảng của xã hội cũ chúng tôi. Hôm nay, bà và cậu đã thấy các quan của chúng tôi đập đầu trên nền đá — nhưng không phải cho đức vua của chúng tôi! Đó là những gì tôi sẽ viết ra hôm nay nếu tôi được tự do chọn lựa. Nhưng thay vào đó, tôi chỉ viết rằng: “Cuộc lễ cổ truyền đã được cử hành”, thế thôi.
Lật ngừng nói, môi cười mỉm, hai mắt lại long lanh rực lửa. Pháo vẫn nổ lác đác ngoài sân điện. Thỉnh thoảng tiếng của các loạt súng thần công vẫn dội lại ầm ầm từ bên kia vòng Hoàng Thành Đại Nội. Joseph liếc thấy vua Khải Định vừa đứng lên khỏi ghế, đang chầm chậm bước đi trong đôi ủng nặng nề đời Minh, hướng về phía cửa. Có lần hình như nhà vua hơi lảo đảo và một hoàng thân mặc áo bào đỏ vội vàng bước tới bên ông, đỡ khuỷu tay ông. Lật nói khi thấy Joseph quay mặt ngó nhà vua:
- Chẳng may Thiên Tử của chúng tôi long thể rất bất an. Cậu có để ý thấy đức vua thường thấm mặt bằng khăn tay? Ông chỉ mới bốn mươi hai tuổi nhưng người ta e rằng có thể ông đang bị bệnh phổi. Chúng tôi cũng không được viết điều đó trên báo.
Tiếng trò chuyện rì rào khắp phòng chợt ngưng hẳn. Tiếng pháo cũng bỗng nhiên im bặt theo một mệnh lệnh âm thầm nào đó khi đức vua cáo từ Khâm sứ và thống đốc Nam Kỳ. Các viên chức Pháp và quan khách lập tức xếp hàng dọc, đi ngang và bắt tay chào từ giã nhà vua. Lật nói thấp giọng:
- Madame và Monsieur Sherman, lúc này đúng là cơ hội thuận tiện để bà và cậu có kỷ niệm về một cái bắt tay với hoàng đế An Nam. Dù chúng tôi không có tục bắt tay nhưng ông ấy muốn làm vui lòng các chúa tể người nước ngoài của ông ấy. Vậy nhị vị hãy cứ tận dụng dịp may này của mình vì không bao lâu nữa, cũng giống xứ Trung Hoa láng giềng, các đức vua của chúng tôi sẽ không hiện hữu ngoài đời nữa — mà chỉ còn ở trong các trang sách đầy bụi bặm của những cuốn sử ký. Xin chào tạm biệt.
Đào Văn Lật bước vội ra khỏi khách sảnh theo cửa hông còn Joseph và mẹ tới đứng vào hàng dọc theo các quan khách sắp ra về. Khi Hoàng đế Khải Định đưa bàn tay mảnh khảnh như tay phụ nữ của mình cho Joseph, cậu cảm thấy nó có vẻ mềm, mỏng và ươn ướt. Trong khi cậu bé Mỹ thì thầm lời chào từ giã một cách lịch sự bằng tiếng Pháp, đấng quốc chủ An Nam vẫn không ngẩng lên nhìn cậu. Vì người Joseph cao hơn ông một chút nên ký ức sau cùng của cậu về vị quân vương ấy là hình ảnh những viên ngọc sáng lung linh trên đỉnh vương miện bằng vàng của ông và lấp lánh ngay trước mắt cậu.