Bài đăng nổi bật

Cờ trong tay Trần Cẩm Tú

  Cờ trong tay Trần Cẩm Tú.  Trước cáo buộc liên quan đến trợ lý nhận hối lộ hàng chục triệu usd, Vương Đình Huệ thẳng thừng chối không biết...

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Di chúc Hồ Chí Minh : những nghi vấn đặt ra từ văn bản


Di chúc Hồ Chí Minh : những nghi vấn đặt ra từ văn bản

Thu, 04/23/2015 - 12:09 — nguyenthituhuy

Nguồn:FB Văn An Trần

Trước hết, xin quý độc giả lưu ý rằng tôi không đánh giá về Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử. Đánh giá về các nhân vật lịch, về đóng góp và sai lầm của họ, là công việc của các sử gia chân chính.

Ở đây, tôi chỉ làm một việc duy nhất : khảo sát các văn bản di chúc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó chỉ ra một số điều mà văn bản cho phép nhìn thấy. Đúng hơn là các văn bản của Hồ Chí Minh cho phép đặt ra một số nghi vấn mà tôi không có câu trả lời. Tôi cũng không có tham vọng trả lời, tôi chỉ làm công việc đặt ra các câu hỏi.

Trong bài này, để tiến hành khảo sát các bản di chúc, tôi sử dụng các bản gốc đánh máy năm 1965 và bản gốc viết tay các năm 1968-1969, của Hồ Chí Minh, được công bố trong cuốn « Toàn văn di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh », NXB Trẻ, 1999.

Bản di chúc đầu tiên được đánh máy và ký ngày 15/5/1965, với sự chứng kiến của Lê Duẩn, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương, có chữ ký của Lê Duẩn trong văn bản đánh máy.

Bản di chúc thứ hai, được viết tay, bằng mực xanh, vào dịp sinh nhật thứ 78, tức là vào tháng 5 năm 1968, với rất nhiều sửa chữa, gạch xóa bằng mực đỏ, không có chữ ký, không có người chứng kiến.

Bản thứ ba, đề ngày 10/5/1969, chỉ có một trang viết tay, với nội dung là phần mở đầu của di chúc.

Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh viết hoặc sửa di chúc vào mỗi dịp sinh nhật. Điều này cũng có thể hiểu được : chính là vào dịp sinh nhật mà người ta nghĩ đến quỹ thời gian còn lại của mình, nhất là đối với những người cao tuổi. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho cái chết của mình một cách đầy ý thức, từ nhiều năm trước khi chết.

Bản gốc di chúc thứ nhất và thứ hai đều có ghi quốc hiệu : « Việt Nam dân chủ cộng hòa/ Độc lập, Tự do, Hạnh phúc ». Và đều có ghi chú ở ngay dòng đầu tiên : « Tuyệt đối bí mật ». Đồng thời việc viết và sửa chữa di chúc nhiều lần, việc sửa chữa, thêm bớt từng chữ một, cho thấy rằng, đối với Hồ Chí Minh, di chúc là một văn bản hết sức quan trọng, hết sức có ý nghĩa đối với ông.

Tôi xin xác định rõ : ở đây tôi không đi vào phân tích toàn bộ các văn bản di chúc, không phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh, không đánh giá đúng sai. Có thể tôi sẽ làm việc đó vào một lúc khác nhưng không phải lúc này.

Nhận xét sơ bộ đầu tiên của tôi có thể tóm gọn trong mấy câu hỏi sau đây :

1. Vì sao từ bản di chúc thứ hai ông chọn hình thức viết tay, chứ không đánh máy nữa ? Liệu ta có thể nghĩ đến một trong những câu trả lời khả dĩ : « để không ai có thể sửa đổi hay đánh tráo được » ? Ta biết rằng đối với một văn bản đánh máy, trừ trang có chữ ký ra, bất kỳ trang nào cũng có thể bị thay thế mà… không để lại dấu vết gì. Dù sao đấy cũng chỉ là một phỏng đoán. Nhưng nếu quả thật Hồ Chí Minh đã có linh cảm và lo ngại rằng di chúc của ông sẽ bị sửa chữa sau khi ông chết thì linh cảm và lo ngại ấy quả là chính xác, vì đó chính là điều mà Bộ Chính trị đã làm.

2. Bản di chúc thứ hai, 1968, không có chữ ký, và không có người chứng kiến. Văn bản được công bố với rất nhiều sửa chữa cho phép phỏng đoán rằng đó có thể là một bản nháp. Câu hỏi là : từ sinh nhật 1968 đến sinh nhật 1969 ông Hồ Chí Minh hoàn toàn có thời gian để chép lại văn bản ngắn ấy thành một văn bản hoàn chỉnh, có chữ ký của ông đàng hoàng, như ông đã làm với văn bản thứ nhất, nhưng tại sao ông không làm điều đó ? Tại sao ông mất 5 năm để viết một di chúc, thay đổi, sửa chữa rất nhiều, chứng tỏ nó rất quan trọng đối với ông, mà rốt cuộc ông chỉ để lại một văn bản dang dở và gạch xóa sửa chữa nhằng nhịt như vậy ? Liệu có phải ông Hồ đã viết lại sạch sẽ và ký cẩn thận, nhưng văn bản chính thức có chữ ký đó không còn nữa ?  

3. Văn bản năm 1969 chỉ có một trang viết tay, nội dung cho thấy đó là lời mở đầu di chúc, lặp lại một số nội dung đã từng viết ở phần mở đầu của những di chúc trước. Tuy nhiên trông nó như là bản nháp, vì đầu trang không đề quốc hiệu, cũng không có dòng chữ «Tuyệt đối bí mật », như hai bản trước. Chẳng lẽ Hồ Chí Minh chỉ viết phần mở đầu mà không viết phần nội dung chính ? Điều này thật đáng ngạc nhiên. Bởi Hồ Chí Minh hiểu rõ tầm quan trọng của di chúc, hiểu rõ rằng di chúc của ông chính là một văn bản lịch sử. Câu hỏi đặt ra là : Liệu có phải văn bản năm 1969 chỉ có chừng đó không ? Liệu có phải Hồ Chí Minh đã viết một bản di chúc thứ ba rất hoàn chỉnh, vào sinh nhật năm 79 tuổi, nhưng chỉ còn lại một trang nháp, và phần chính của nó đã bị thất lạc, hoặc bị hủy bỏ, hoặc không được công bố ?

Tại sao có những câu hỏi này ?

Lý do như sau : nếu so giữa bản di chúc thứ nhất và bản thứ hai sẽ thấy có những thay đổi rất quan trọng về nội dung. Điều đó cho phép giả định rằng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi còn căn bản và quan trọng hơn nữa trong bản thứ ba. Đồng thời ta cũng biết rằng, bản di chúc được Bộ Chính trị gọi là của Hồ Chí Minh và được Bộ Chính trị công bố sau khi ông chết đã bị sửa đổi so với bản gốc, và bị khôi phục lại những gì mà chính Hồ Chí Minh đã bỏ đi ở trong bản thứ hai. Ngoài ra ngày chết của ông cũng bị Bộ Chính trị tự ý thay đổi, và di nguyện quan trọng của ông về việc chôn cất đã bị Bộ Chính trị phản bội : di nguyện về việc hỏa táng và đem tro chia ra ba miền. Bản « di chúc Hồ Chí Minh » do Bộ Chính trị công bố năm 1969 là một văn bản bị cắt dán, ghép một số đoạn của cả ba văn bản di chúc gốc, đồng thời bị bỏ đi những phần quan trọng nhất liên quan đến việc chôn cất, đến việc miễn thuế cho dân, đến việc chỉnh đốn đảng và những việc cần làm đối với « con người ». Trên thực tế Hồ Chí Minh đã bị phản bội ngay khi vừa nhắm mắt.

Vì vậy, câu hỏi đặt ra là :

Liệu có thể xảy ra trường hợp : trong bản di chúc viết năm 1969 Hồ Chí Minh đã có những thay đổi khiến cho người ta không muốn lưu giữ văn bản ấy ? Liệu có phải bản di chúc cuối cùng, bản di chúc chính thức của Hồ Chí Minh (viết năm 1969, với chữ ký của ông, và là bản mà ông muốn đưa ra trước toàn dân) đã bị biến mất, đã bị hủy bỏ, hoặc đã bị cất giấu, không được công bố ?

4. Bản đánh máy đầu tiên với đầy đủ tất cả những nghi thức cần thiết cho thấy rằng ông Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là một bản di chúc. Vậy tại sao những bản di chúc về sau (được nhà nước công bố) lại ở trong tình trạng của bản nháp, gạch xóa, tẩy sửa, thiếu những nghi thức cần thiết đó ?

Và câu hỏi là : bản di chúc nào là bản mà ông Hồ muốn đưa ra trước toàn dân ?

Dĩ nhiên, đó không phải là bản viết năm 1965, bởi nó đã bị thay thế bằng các văn bản khác. Từ những gì đã công bố, ít nhất ta biết rằng ông Hồ đã viết lại hoàn toàn di chúc vào sinh nhật năm 1968. Và trong bản gốc viết tay, ông nói rõ lý do, mặc dù sau khi cân nhắc ông gạch bỏ câu này : « Tháng 5/1968, khi tôi xem lại thư này thì tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi ». Những thay đổi đó đã khiến cho cách nhìn nhận của ông thay đổi, và ông cảm thấy cần phải viết lại hoàn toàn. Cách đánh số trang của bản viết tay năm 1968 cho thấy rằng đó là một bản hoàn chỉnh, có logic riêng, có cấu trúc riêng, độc lập với văn bản năm 1965. Đó là một văn bản mới hoàn toàn. Việc quốc hiệu được ông Hồ ghi đầu trang cũng là một dấu hiệu xác nhận đó là một văn bản mới. Vậy có nghĩa là văn bản năm 1965 đã bị thay thế bởi văn bản năm 1968. Và phải xem bản viết năm 1965 là không còn hiệu lực ?

Và điều quan trọng, xin nhắc lại : Hồ Chí Minh muốn công bố trước toàn dân bản di chúc nào ?

Chúng ta thấy rõ rằng ông viết di chúc cho toàn thể nhân dân. Bản viết năm 1968 cho thấy nhân dân là đối tượng chính mà ông nghĩ đến. Và việc chôn cất ông, theo như ông dặn lại trong di chúc, là việc của đồng bào ba miền, chứ không phải là việc của Bộ Chính trị.

Thật đáng ngạc nhiên nếu ông muốn công bố cho toàn dân mấy văn bản gạch xóa, thêm bớt nhằng nhịt đó. Tiến hành viết di chúc trong vòng 5 năm hẳn ông phải có một bản hoàn chỉnh, rõ ràng, sạch sẽ, với chữ ký và người chứng kiến, một văn bản có giá trị pháp lý, như là văn bản đầu tiên ? Tại sao không có một văn bản như vậy ? Lẽ nào trước khi mất ông không dặn lại là phải công bố bản di chúc nào ? Phải chăng ông Hồ đã để lại một bản hoàn chỉnh, đảm bảo các thủ tục pháp lý, nhưng bản đó đã không được công bố ?

Những câu hỏi trên đây tôi không trả lời được. Tôi đã đọc rất kỹ cuốn « Bác Hồ viết di chúc » do NXB Sự Thật in năm 1989, được gọi là Hồi ký của Vũ Kỳ, do Thế Kỷ ghi, tuy nhiên tôi không tìm thấy câu trả lời khả dĩ nào cho các nghi vấn trên đây.

Hy vọng giới sử học chân chính một ngày nào đó sẽ làm sáng tỏ.

Trên thực tế chúng ta không biết bản nào là bản di chúc chính thức, chúng ta không biết Hồ Chí Minh muốn công bố bản nào. Hiện tại thì bản cuối cùng tương đối đầy đủ mà chúng ta có là bản thứ hai, bản được viết năm 1968. Và tôi đành phải làm việc trên những gì còn lại và được công bố.

Xin quý độc giả, và nhất là các bạn thanh niên và sinh viên đang bị nhồi nhét và bị tẩy não bởi phong trào « Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh », hãy đọc kỹ các văn bản gốc của Hồ Chí Minh ở phần phụ lục dưới đây. Các bạn hãy đọc kỹ những gì đã bị ông ấy bỏ đi trong bản di chúc thứ hai, và hãy tự phân tích xem vì sao ông ấy không muốn giữ chúng lại, vì sao ông ấy xóa bỏ đi, và vì sao chúng lại được Bộ Chính trị khôi phục trong bản « di chúc» mà họ công bố năm 1969 sau khi ông ấy chết.

Có thể các bạn sẽ cảm nhận được sự dối trá đang đè nặng lên cuộc sống của các bạn như thế nào khi các bạn đối chiếu với những gì mà các bạn đang được rao giảng, qua tài liệu của Ban Tuyên giáo soạn cho các bạn. Có thế các bạn sẽ đặt câu hỏi về việc tại sao Đảng, Nhà nước lại chi tiêu tốn kém như vậy cho cái màn kịch khổng lồ đem diễn trên toàn quốc (nhất là trong các trường học) từ nhiều năm nay về việc « học tập » này.

Có thể các bạn sẽ xác định được vì sao những người cố tình phản bội Hồ Chí Minh lại bắt các bạn phải « học tập » ông ấy. Và có thể các bạn sẽ thấy rằng những thứ họ đang nhồi nhét các bạn lại chính là những thứ mà bản thân Hồ Chí Minh đã từ bỏ, trước khi chết.

Paris, 23/4/2015

Nguyễn Thị Từ Huy



Phụ lục I

VIỆT NAM ZÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
-------------------------

Tuyệt đối bí mật Nhân zịp mừng 75 tuổi

Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung-quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ -Fủ có câu thơ rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Ngĩa là: Người thọ 70, xưa nay hiếm.

Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”.

Ai đoán biết tôi sẽ sống và fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa?

Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Trước hết nói về ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một zạ fục vụ zai cấp, fục vụ nhân zân, fục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân zân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của zân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ fải zữ zìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như zữ zìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành zân chủ rộng rãi, thường xuyên và ngiêm chỉnh tự fê bình và fê bình là cách tốt nhất để củng cố và fát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Fải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ fải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Fải zữ zìn Đảng ta thật trong sạch, fải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân zân.

Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung fong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo záo zục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây zựng chủ ngĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi zưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.

Nhân zân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng zan khổ, bị chế độ phong kiến và thực zân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.

Tuy vậy, nhân zân ta rất anh hùng, zũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân zân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để fát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân zân.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể fải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta fải quyết tâm đánh zặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây zựng hơn mười ngày nay!

Zù khó khǎn zan khổ đến mấy, nhân zân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định fải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh zự lớn là một nước nhỏ mà đã anh zũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Fáp và Mỹ; và đã góp fần xứng đáng vào fong trào zải fóng zân tộc.

Về fong trào cộng sản thế giới - là một người suốt đời fục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của fong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay zữa các đảng anh em!

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp fần đắc lực vào việc khôi fục lại khối đoàn kết zữa các đảng anh em trên nền tảng chủ ngĩa Mác - Lênin và chủ ngĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ fải đoàn kết lại.



- - -


Về việc riêng Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng fí ngày zờ và tiền bạc của nhân zân.

Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” zần zần sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao zờ ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.

Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.

Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào fải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp.

Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.

Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn zân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.

Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn zân ta đoàn kết fấn đấu, xây zựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, zân chủ và zàu mạnh, và góp fần xứng đáng vào sự ngiệp cách mạng thế zới.

Hà nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
Hồ Chí Minh

Chứng kiến

Bí thư thứ nhất

Ban chấp hành trung ương

Lê Duẩn



Phụ lục II

VIỆT NAM ZÂN CHỦ CỘNG HÒA

Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc

(Tuyệt đối bí mật)

Năm nay, tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người “trung thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là điều bình thường.

Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?

Vì vậy tôi viết sẵn và để lại mấy lời này, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.

Về việc riêng

Suốt đời tôi hết lòng hết sức fục vụ Tổ quốc, fục vụ cách mạng, fục vụ nhân dân. Nay zù phải từ biệt thế zới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được fục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.

Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu fúng linh đình, để khỏi lãng fí thì giờ và tiền bạc của nhân zân.

Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn.

Tro thì chia làm 3 fần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.

Đồng bào mỗi miền nên chọn l quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà zản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.

Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên zao fó cho các cụ fụ lão.

Tháng 5-1968, khi xem lại thư này tôi thấy cần fải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.

Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn zân ta fải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương ngiêm trọng zo đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược zã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, fức tạp và khó khăn. Chúng ta fải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần fải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng zao fó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân zân. Làm được như vậy, thì zù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.

Đầu tiên là công việc đối với con người.

Đối với những người đã zũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, zân quân, du kích, thanh niên xung fong..,), Đảng, Chính fủ và đồng bào fải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời fải mở những lớp zạy ngề thích hợp với mỗi người để họ có thể zần zần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa fương (thành fố, làng xã) cần xây zựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh zũng của các liệt sĩ, để đời đời záo zục tinh thần yêu nước cho nhân zân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa fương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác nông ngiệp) fải zúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân zân và thanh niên xung fong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra zũng cảm. Đảng và Chính fủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các ngề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật zỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây zựng thăng lợi chủ ngĩa xã hội ở nước ta.

Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp fần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính fủ cần fải có kế hoạch thiết thực để bồi zưỡng, cất nhắc và zúp đỡ để ngày thêm nhiều fụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân fụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.

Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v.. thì Nhà nước fải zùng vừa záo zục, vừa fải zùng fáp luật để cải tạo họ, zúp họ trở nên những người lao động lương thiện.

Trong bao năm kháng chiến chống Fáp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông zân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính fủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn zan khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề ngị miễn thuế nông ngiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông ngiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát zạ, mát lòng, thêm niềm fấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.

Ở đây nói về kế hoạch xây zựng lại thành fố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi fục và mở rộng các ngành kinh tế. Fát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ záo zục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân zân, như fát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động. Củng cố quốc fòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc...

Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và fức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để zành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn zân, tổ chức và záo zục toàn zân, zựa vào lực lượng vĩ đại của toàn zân.



Phụ lục III :
10-5-1969

Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta zù phải kinh qua zan khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Tói có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ fụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.

Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân zân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong fe xã hội chủ ngĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và zúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta.

Ông Đỗ Fủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy” ngĩa là “người thọ 70, xưa nay hiếm”.

Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn fục vụ cách mạng, fục vụ Tổ quốc, fục vụ nhân zân được bao lâu nữa?

Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.
http://www.rfavietnam.com/node/2550

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Đôi điều lạm bàn về lịch sử Việt Nam hiện đại từ sau Tháng Tám năm 1945

Đôi điều lạm bàn về lịch sử Việt Nam hiện đại từ sau Tháng Tám năm 1945

bauxitevn2:01 AM


Trần Quí Cao
Bài 6: Kết luận
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyên truyền rằng, dân tộc Việt nam phải mang ơn trời biển của họ, vì họ đã lãnh đạo dân tộc tiến hành các quá trình và tổ chức các sự kiện lịch sử trọng đại đi đến thành công:
1) Cách mạng Tháng Tám, 2) Kháng chiến chống Pháp, 3) Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, và 4) Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau năm 1975.
Nếu gọi những sự kiện lịch sử đó là “thành công”, thì “thành công” ấy dành cho ai?
Chỉ có một câu trả lời đơn giản là, trong khi nó mang lại lợi ích vô cùng to lớn cho Đảng Cộng sản Việt Nam, thì ngược lại, nó gây ra không biết bao nhiêu thảm họa cho dân tộc Việt Nam.
Nếu xem xét kỹ các quá trình/sự kiện lịch sử kể trên, ta thấy rõ hậu quả của quá trình/sự kiện trước tạo điều kiện cho quá trình/sự kiện sau. Hậu quả của quá trình/sự kiện sau thảm khốc và lâu dài hơn hậu quả của quá trình/sự kiện trước. Nếu gom tất cả các hậu quả đó lại và tính lũy kế, đây thực là một thảm họa quá lớn, diễn ra trong một thời gian quá dài trên đất nước này, giống như căn bệnh nan y để lại cho các thế hệ sau nhiều di chứng.
Hãy làm một phép so sánh dưới đây với Thái Lan và với Hàn Quốc, những nước mà lúc cuộc chiến “Chống Mỹ cứu nước” của Việt Nam mới bắt đầu, nền kinh tế của họ còn thua xa miền Nam Việt Nam (xin xem bài 4 Hậu quả của cuộc “Kháng chiến chống Mỹ cứu nước”), và chế độ chính trị của họ chưa hội đủ các yếu tố của nền Tự do Dân chủ như Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1960, GDP/đầu người Nam Việt Nam gấp 221% lần Thái Lan. Sau 15 năm “Chống Mỹ” cứu nước và 38 năm dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 2013, GDP/đầu người Việt Nam bằng 33Thái Lan! Nếu đột nhiên vào cuối năm 2013, người dân Thái Lan thấy GDP/đầu người của họ chỉ còn một phần ba, từ 5,676 USD GDP xuống 1,902 USD, và hơn thế, nếu từ một chính thể Dân chủ, người dân được hưởng các quyền Tự do căn bản, mà trở thành một chính thể Độc tài toàn trị, tước đoạt tất cả các quyền Tự do tối thiểu, đó thật sự là một Đại thảm họa.
Năm 1960, GDP/đầu người Nam Việt Nam bằng 144% Hàn Quốc. Sau 15 năm “Chống Mỹ cứu nước” cùng 38 năm dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 2013, GDP/đầu người của Việt Nam bằng 7% của Hàn Quốc. Nếu đột nhiên vào cuối năm 2013, người dân Hàn Quốc thấy GDP/đầu người của nuớc họ chỉ còn ít hơn một phần mười ba, từ 25.975 USD xuống 1,902 USD, và hơn thế, nếu từ một chính thể dân chủ, người dân được hưởng các quyền tự do căn bản, mà trở thành một chính thể độc tài toàn trị, tước đoạt tất cả các quyền tự do tối thiểu, đó cũng thật sự là một Đại thảm họa.
Thái Lan và Hàn Quốc có hai điều căn bản khác Việt Nam:
1) Họ là đồng minh của Mỹ trong khi Việt Nam chống Mỹ.
2) Họ theo chính thể Dân chủ, đa đảng giống như Mỹ, ngược lại, Việt Nam thiết lập chính thể Độc đảng và toàn trị theo mô hình Nga Xô và Trung Cộng.
Trước năm 1960, Trung Cộng không hề dám động tới miền Nam Việt Nam, GDP/đầu người của Trung Quốc là 92 USD so với miền Nam Việt Nam là 223 USD. Văn hóa miền Nam miền Nam, tuy có vài nét tương đồng với văn hóa Trung Quốc, nhưng hoàn toàn không chịu sự chi phối của Trung Quốc, trái lại rất tự tin về khả năng tự chủ của mình. Chỉ vì cuộc nội chiến khốc liệt, Cộng sản miền Bắc làm cho miền Nam suy yếu, nên đầu năm 1974 Trung Quốc, với sự đồng lõa của chính quyền Cộng sản, tiến công chiếm một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa.
Chỉ vì Đảng Cộng sản Việt Nam thần phục tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh để bám giữ quyền lực toàn trị mà từ Hội nghị Thành Đô tới nay, trong vòng 25 năm, Việt Nam đã bị nhà cầm quyền Trung Cộng gặm nhấm dần lãnh thổ trên biên giới phía Bắc như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc… Mặt khác Trung Quốc còn bày ra trăm thứ mưu ma chước quỷ, dẫn dụ Đảng Cộng sản Việt Nam vào mê lộ “mười sáu chữ vàng”, “bốn tốt”… nên đã sang nhượng dần cho chúng những vùng đất, vùng biển có vị trí kinh tế, địa chính trị tối quan trọng đối với an ninh quốc gia như khai thác Bauxite Tây Nguyên, Khu công nghiệp Vũng Áng cùng hàng trăm dự án với thời hạn 50 năm, để chúng tự do tàn phá tài nguyên đất, biển, hủy hoại môi trường sống. Trung Quốc luôn có tham vọng khống chế Biển Đông, chúng đang xây dựng các công trình quân sự trên các đảo chiếm được để uy hiếp Việt Nam. Dã tâm của Trung Nam Hải là rất rõ, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam có nhận ra hay có dám nhận ra?
Như vậy, nếu lấy mục tiêu là quốc gia độc lập, dân tộc phát triển và người dân Việt Nam được sống trong môi trường tự do, dân chủ, no ấm, văn minh… thì hậu quả những gì Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm hoàn toàn đi ngược chiều hướng này. Thực sự, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất thành công trong việc đi ngược chiều với nguyện vọng phát triển của dân tộc. Không ai ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có thể khiến dân tộc cần cù thông minh của quốc gia giàu tài nguyên này nghèo đói suốt mấy chục sau “Giải phóng”. Không ai ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có thể khiến dân tộc giàu tinh thần chống ngoại xâm này cúi đầu nhịn nhục nhìn Trung Quốc chiếm cứ lãnh thổ trên đất liền và biển đảo của tổ quốc thiêng liêng! Không ai ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có thể khiến dân tộc Việt Nam cúi đầu chịu sự thống trị lâu dài bằng chế độ độc tài và toàn trị của những kẻ tham tàn phá hại đất nước và và cầu lụy Trung Quốc xâm lăng! 
Vậy thì nguyên nhân nào Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa được dân tộc vào các cuộc chiến phi lý và tàn khốc như vậy mà họ đã đạt được mục đích?
Trong cả hai cuộc chiến gối đầu nhau, ngọn cờ Giải phóng dân tộc và giành độc lập được Đảng Cộng sản triệt để giương cao làm tiêu đề cho việc phát động nhân dân. Xét từ quá trình lịch sử ngàn năm Bắc thuộc, tám cuộc kháng chiến chống xâm lược Tàu, tám mươi năm dưới ách thực dân Pháp, phát xít Nhật, và sau nữa là hai trăm năm mươi năm nội chiến qua các thời kỳ, đã nung nấu tinh thần quật khởi của người Việt. Cho nên đại bộ phận dân tộc sẵn sàng nghe theo tiếng gọi “có súng dùng súng, có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) quyết hy sinh giành độc lập.
Thuận theo đà đánh Pháp, Đảng Cộng sản tiếp tục kêu gọi dân chúng vùng lên đánh Mỹ. Dù thời thế đã thay đổi, dù Mỹ tới miền Nam với tư cách đồng minh tương trợ “ngăn chặn làn sóng đỏ vượt qua vĩ tuyến 17”, dù dân chúng miền Nam đang có đời sống no ấm và tự do hơn dân chúng miền Bắc nhiều lần, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền dối trá: Mỹ nô dịch miền Nam, dân chúng miền Nam bị bóc lột cùng cực, đói nghèo. Chế độ cai trị sắt máu cùng chính sách bưng bít thông tin, tuyên truyền láo khoét có tác dụng với đồng bào miền Bắc vốn bị bịt mắt bởi “bức màn sắt”.
Tuy nhiên, từ trong lòng miền Nam, một phần không nhỏ dân chúng cũng ủng hộ cuộc chiến phát động bởi miền Bắc. Trong số đó, có không ít thuộc tầng lớp trí thức. Sau khi đất nước thống nhất và đặt dưới quyền toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều người trong số họ mới tỉnh ngộ. Tầm nhìn của trí thức Việt Nam ngắn như vậy sao? Hay là phần lớn trong giới “trí thức” Việt Nam thực chất chỉ là những người có bằng cấp, có chuyên môn hẹp, nhưng chưa có đủ “kiến văn” về mọi mặt của đời sống, về các khuynh hướng chính trị của thế giới? Do đó họ bị phần thiển cận trong khát vọng “độc lập” lôi cuốn? 
Trước năm 1975, Việt Nam đã có một nửa đất nước theo chính thể Dân chủ tự do, và một nửa kia theo chính thể Độc tài toàn trị. Rốt lại, một nửa theo chính thể Dân chủ, chẳng những không đem lại Tự do cho đồng bào miền Bắc, mà còn đánh mất Tự do của chính mình. 
Một số người cho rằng tất cả tội lỗi là do Đảng Cộng sản Việt Nam. Có nên đặt vấn đề một cách khác chăng nếu người dân Việt nam hiểu biết hơn về thời cuộc, về khuynh hướng chính trị thế giới, và hơn hết là có lòng bao dung và chấp nhận nhau hơn, có tinh thần khoa học hơn để xem xét sự việc từ nhiều mặt, và do đó, ít tính cực đoan hơn, thì Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ sức đẩy đất nước này vào những cuộc chiến nồi da xáo thịt tàn khốc như vậy không? Có đủ sức tròng cái ách toàn trị lên đầu dân tộc không? Nếu vậy thì dân tộc chúng ta sẽ tiến bước về hướng hòa bình hay hướng chiến tranh? Và cuối cùng sẽ là một thể chế tự do hay nhà nước độc tài?
Nếu đặt vấn đề như vậy, lòng dân sẽ thanh thản hơn, ít thù hận nhau hơn. Để Việt Nam nằm trong hoàn cảnh hôm nay, mỗi người chúng ta đều có phần “cộng đồng trách nhiệm” (chữ của Huy Đức). Lời khôn ngoan ngàn xưa còn đó: “Dân tộc nào, chính quyền nấy”. Thế hệ cha, anh của chúng ta đã có lựa chọn của họ. Thế hệ chúng ta, thế hệ đang làm chủ xã hội, có lựa chọn của chúng ta. Chúng ta không dứt bỏ quá khứ, nhưng chúng ta cũng không để những thế hệ đã, hay đang bước ra ngoài dòng chảy của cuộc thời đại, áp đặt lên chúng ta lối sống theo kiểu họ muốn, nhất là khi ý muốn của họ đã bị tha hóa, xuất phát từ lòng ích kỷ muốn bám giữ quyền lực và quyền lợi phe nhóm.
Thời đại toàn cầu hóa, thông tin hóa, kiến thức thay đổi hàng ngày, tại sao dân tộc Việt Nam ta cam chịu để những thế lực dùng bạo lực bắt chúng ta phải:
1) Giam suy nghĩ và kiến thức trong một cái lồng chật hẹp và cũ kỹ của Chủ nghĩa Cộng sản?
2) Xây dựng mô hình xã hội bởi một học thuyết đầy sắt máu ra đời cách đây gần hai trăm năm, đã bị loài người vứt vào sọt rác lịch sử từ lâu?
3) Chấp nhận những người lãnh đạo mà chúng ta không bầu chọn, để họ ngang nhiên thiết lập chính thể độc tài và toàn trị trên xã hội chúng ta?
4) Chấp nhận những người lãnh đạo mà chúng ta thấy rất không xứng đáng, thậm chí thấy đang bán rẻ quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc cho ngoại bang?
Thời gian cầm quyền toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quá đủ dài để dân chúng hiểu rõ các thảm họa Đảng mang lại cho dân tộc. Sự trỗi dậy quá mạnh và quá nhanh về quân sự của Trung Quốc trong thế không tương xứng với cách hành xử quá thiếu trách nhiệm của họ với hòa bình và phát triển của thế giới, khiến tình cảm và quyết tâm chính trị của thế giới nghiêng về ủng hộ Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra là, bao lâu nữa lịch sử đất nước mới sang trang trong khi chúng ta đã trả giá quá nhiều, nhưng đã học đươc mấy phần bài học đáng học? Và đã sẵn sàng thực hành một cách có hiệu quả chưa?
Câu trả lời nằm trong hợp lực của dân tộc Việt và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nào hợp lực có chiều hướng về dân chủ, tự do, khi đó vận nước sẽ phục hưng. Trong thời gian ngắn ngủi từ nay tới đó, tôi tin rằng những người Việt Nam mong muốn có chính thể tự do để sống và phát triển đang, bằng nhiều cách thức, hoạt động để xoay chiều hợp lực này về hướng Văn minh. 
T.Q.C.
Tác giả gửi BVN.
Tài liệu tham khảo
Bên Thắng Cuộc – Giải Phóng. Huy Đức. Nhà xuất bản OsinBook, 2012
Bên Thắng Cuộc – Quyền Bính. Huy Đức. Nhà xuất bản OsinBook, 2012
Các bài viết của Nguyễn Trunghttp://www.viet-studies.info/NguyenTrung/
Chính Đề Việt Nam. Ngô Đình Nhu. Do Dân Luận đăng từ ngày 20/11/2013 tới ngày 01/12/2013 - https://www.danluan.org/thu-vien/
Với độ lùi thời gian, các sự kiện chính trị xảy ra trên thế giới như việc Nga và Đông Âu từ bỏ thuyết Cộng sản, việc Tàu nổi lên thành một thế lực tranh chấp với Mỹ và châu Âu, Tàu lấn chiếm và khống chế Việt Nam với sự thần phục của Đảng Cộng sản Việt Nam… cho thấy các tiên đoán chính trị của tác phẩm này chính xác tới mức nào! Tác phẩm này rất nên đọc.
Hồi Ức và Suy Nghĩ. Trần Quang Cơ. Tài liệu do Nghiên Cứu Quốc Tế đăng ngày 22/5/2014 - http://nghiencuuquocte.net/forums/topic/hoi-ky-tran-quang-co/
Đọc để biết thêm chứng cớ về mưu đồ khống chế Việt Nam của Trung Cộng. Đọc để biết ông Trần Quang Cơ, dù thuộc phe miền Bắc, có cùng quan điểm với ông Ngô Đình Nhu về dã tâm truyền kiếp xâm chiếm và nô thuộc Việt Nam của Trung Quốc.
Đọc để biết rằng nhiều khuôn mặt lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi cầu sự che chở của Trung Cộng, đã chấp nhận chính sách bành trướng của Trung cộng đối với Việt Nam, chấp nhận Trung Cộng chiếm đất, giết dân Việt Nam.
The Pentagon Papers, Gravel Edition. Boston: Beacon Press, 1971.
Tập tài liệu gồm 4 tập, cho thấy ý đồ của Hoa Kỳ là bảo vệ phần còn lại của châu Á khỏi bị nhuộm đỏ bởi Trung Cộng sau khi Mao chiếm toàn bộ Trung Hoa lục địa. Thực là đáng tiếc khi Việt Nam không biết tận dụng thời cơ này để phát triển, mà thay vào đó là “tử chiến” với Hoa Kỳ để đưa đất nước vào vòng chậm tiến bởi chính thể độc tài và toàn trị! 
Từ Hiệp Định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”. Nguyễn Ngọc Giao. http://www.diendan.org/viet-nam/tu-hiep-dinh-paris-den-ben-thang-cuoc
Đọc để biết một quan điểm của không ít nhà trí thức về cuộc chiến Việt Nam dưới góc nhìn “yêu nước - phản quốc” gắn liền với “giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân đế quốc”. Quan điểm này nghiêng về ủng hộ sự thống nhất đất nước bởi Bắc Việt.
Từ Thực Dân Tới Cộng Sản. Hoàng Văn Chí. www.vietnamvanhien.net
Xem Phần 1 - Cái vinh và cái nhục của một tiểu nhược quốc (trang 12-30) để thấy những điểm tương đồng với các chương I và II của Chính Đề.
Và xem các phần khác để thấy tác giả, dù không ủng hộ hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, vẫn chia sẻ mối lo Việt Nam lệ thuộc Trung Cộng nếu Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục theo chủ nghĩa Cộng Sản.
Về chính phủ của Bảo Đại và Trần trọng Kim. Phạm Cao Dương.
Theo nhận định riêng, bài viết này phản ánh quan điểm về chính phủ Trần Trọng Kim của nhiều người Việt Nam quan sát thời cuộc một cách thầm lặng.
Việt Nam 1945-1995: Chiến Tranh, Tị Nạn và Bài Học Lịch Sử. Lê Xuân Khoa. Blog Ba Sàm, đăng trong thời gian 30/1/2023-06/3/2013.
Tài liệu dài, chứa nhiều tư liệu và kiến thức về một giai đoạn lịch sử. Văn phong dễ đọc, trình bày cái nhìn về thời cuộc của một trí thức trong lãnh vực giáo dục, và cung cấp các kiến thức có ích về thời đệ nhất Cộng Hòa của miền Nam.
Vietnam War (Alternate Tittle: Second Indochina War)Ronald H. Spector(Last Updated 10-28-2014). Encyclopaedia Britannica.http://www.britannica.com/EBchecked/topic/628478/Vietnam-War/
Tóm lược về cuộc chiến Việt Nam lần thứ hai, khởi đầu từ khi Việt Nam bị chia hai bởi hiệp định Genève năm 1954 cho tới khi chế độ Sài Gòn sụp đổ năm 1975. Xem để biết và hiểu cách người phương Tây nhìn cuộc chiến Việt Nam thời đó.

Đôi điều lạm bàn về lịch sử Việt Nam hiện đại từ sau Tháng Tám năm 1945


Đôi điều lạm bàn về lịch sử Việt Nam hiện đại từ sau Tháng Tám năm 1945

bauxitevnThu 1:43 AM


Trần Quí Cao
Bài 5: Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ năm 1975 tới nay
Cuộc “Kháng chiến chống Mỹ cứu nước” đã kết thúc bằng chiến thắng của Hà Nội vào ngày 30/4/1075.
Nếu tạm quên đi sự đau thương, mất mát không gì bù đắp nổi mà cuộc chiến này gây ra cho dân tộc, công cuộc thống nhất hai miền cũng khiến nhiều người hy vọng vào một tương lai hòa giải hòa hợp dân tộc và tái thiết đất nước. Nhưng, rất nhanh chóng, người dân miền Nam sững sờ vì sau những lời đường mật đầu môi chót lưỡi “chiến thắng này là chiến thắng của cả dân tộc” của kẻ thắng cuộc, chính quyền mới đã nhanh chóng đưa phần lớn quân cán chính phía bại trận “đi học tập”, thực chất là vào các trại tù, giam giữ năm, mười, mười lăm năm với tội danh “ngụy quân, ngụy quyền” phản quốc. Cũng trong thời gian đó, tài sản của các “phạm nhân” này bị chính quyền Cộng sản các cấp tịch thu, cha mẹ, vợ con bị đày đến những nơi ma thiêng nước độc được gọi là “Khu kinh tế mới”. 
Sau hai mươi năm, chính quyền Hà Nội lại cho áp dụng kịch bản giống như Cải cách ruộng đất và Cải tạo công thương ở miền Bắc cuối những năm năm mươi. Hàng loạt điền chủ, tài chủ và các nhà doanh nghiệp phải ngậm đắng nuốt cay đưa tài sản của mình vào cái gọi là “Quốc doanh” hoặc “Hợp tác xã”, để rồi chỉ sau một thời gian ngắn, làm ăn thua lỗ, lại trắng tay…
Đến lúc này thì, không chỉ đồng bào miền Nam, mà ngay cả đồng bào miền Bắc vốn từ lâu bị tuyên truyền tín điều Cộng sản, cũng đã thức tỉnh. Họ hiểu ra rằng, “Sự nghiệp Chống Mỹ cứu nước và Giải phóng miền Nam” thực ra chỉ là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Chính quyền Hà Nội, qua tín hiệu đèn xanh của Trung Cộng, phát động chiến tranh xâm chiếm miền Nam để gom đất nước về một mối dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Sau khi “Giải phóng miền Nam”:
1) Chế độ độc tài đảng trị của Cộng sản Việt Nam được áp đặt trên toàn bộ đất nước Việt Nam thống nhất. Chế độ này phá vỡ hoàn toàn môi trường khai phóng để dân tộc phát triển. Từ đó cho tới nay, trên lãnh thổ Việt Nam không gì có thể phát triển ra ngoài cái bóng bao trùm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam lớn hơn quyền lực của nhân dân. Quyền lợi của đất nước phải hy sinh cho quyền lợi của Đảng. 
2) Cả miền Nam bị tàn phá và thương tổn tận gốc rễ bởi các chính sách hay chiến dịch như “Học tập Cải tạo” (thực chất là bỏ tù không xét xử các viên chức chính quyền và quân đội miền Nam thua trận), “Đánh tư sản mại bản, tư sản công thương nghiệp” (thực chất là tước đoạt của cải của dân chúng miền Nam). Từ các các đợt “Đổi tiền” đến chiến dịch “Bài trừ Văn hóa phản động đồi trụy” được tiến hành dưới nhiều hình thức, chứng tỏ chính quyền dã tuyên chiến với Văn hóa, triệt để xóa bỏ tri thức mà nhân loại phải mất hàng ngàn năm mới tích lũy được. Các hệ tư tưởng triết học, các thành tựu khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật bị xem là kẻ thù của Chủ nghĩa Cộng sản phải được tận diệt để thay bằng một nền văn hóa mới giàu tính Đảng và tính Giai cấp. Song hành với đó là chính sách phân biệt tuyển sinh vào các trường đại học, hủy diệt nhân tài. Sự nhếch nhác của nền giáo dục hiện nay chính là hệ quả của những chủ trương sai lầm đó. 
Đất nước vừa hòa bình sau 30 năm chiến tranh thảm khốc, lẽ ra phải khoan sức dân, phải ban hành và thực thi các đạo luật khuyến khích, hỗ trợ sản xuất để dân giàu, nước mạnh, thì trái lại, Đảng lại chủ trương một nền kinh tế khép kín, triệt hạ tất cả các phương tiện sản xuất, cơ chế xã hội lẫn nguồn nhân lực. Hậu quả của chính sách này là cả nước đói nghèo. 
3) Thảm nạn thuyền nhân. Bị áp bức về tự do tư tưởng, trong tình trạng đói nghèo không lối thoát, người miền Nam nghĩ đến chuyện bỏ quê hương ra đi tìm miền đất hứa. phong trào thuyền nhân làm rúng động lương tâm thế giới. Hàng triệu người vượt biển trốn chạy chế độ Cộng sản trên những con thuyền mỏng manh. Theo các nguồn tin không chính thức, trong những cuộc vượt biển tìm tự do có một không hai trong lịch sử nhân loại đó, ít nhất ba trăm ngàn người bỏ xác trên biển bởi bão tố, hải tặc, thậm chí, còn không ít nạn nhân bị chính lực lượng công an Cộng sản thủ tiêu sau khi đã thu vàng theo những hợp đồng bán chính thức.
4) Các cuộc chiến mới. Cuộc chiến biên giới Tây Nam với Campuchia; cuộc chiến biên giới phía Bắc với Trung Quốc. Trung Quốc hải chiến và chiếm thêm biển đảo của Việt Nam…
5) Hội nghị Thành Đô. Khi hệ thống các nước Cộng sản sụp đổ trên qui mô toàn cầu, tất cả các nước Đông Âu từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, chính quyền Cộng Sản Việt Nam quay sang thần phục chính quyền Cộng sản Trung Quốc, “mở đầu một thời kì Bắc thuộc mới” theo lời ông Nguyễn Cơ Thạch, người bị loại khỏi Bộ Chính trị vì chủ trương độc lập với Trung Cộng. Nội dung các văn bản ký kết tại Hội nghị Thành Đô, nơi các lãnh đạo Việt Nam sang chầu hầu Thiên triều, cho tới nay vẫn chưa được bạch hóa, và do đó, vẫn còn là một bí mật chính trị của Việt Nam. Đó cũng là trở ngại rất lớn cho Việt Nam trên con đường thoát Trung, nghĩa là độc lập với Trung Quốc.
Những ai còn nghi ngờ về quyết tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận kẻ xâm lăng làm thầy làm bạn thì xin mời xem Hồi ức và suy nghĩ của Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, một nhân chứng quan trọng của giai đoạn đó. Đọc để biết rằng, trong khi nhiều người đã nhận thức rõ: “Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá quyền”, và “Mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc đậm nét hơn mặt xã hội chủ nghĩa ” thì sau sự kiện Trung Quốc đánh chiếm Trường Sa năm 1988, ông Lê Đức Anh vẫn tuyên bố năm 1990: “Ta phải tìm đồng minh, đồng minh này là Trung Quốc”; còn Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thì phát biểu: “Dù bành trướng thế nào đi nữa thì Trung Quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa!”. Tưởng cũng nên nhắc lại, theo một nguồn tin, chính ông Lê Đức Anh đã ra lệnh quân đội không bắn trả khi quân Trung Cộng đánh chiếm Gạc Ma và giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam hai năm trước đó.
6) Sau Hội nghị Thành Đô, Việt Nam ngày càng lệ thuộc Trung Cộng. Nước Việt Nam lệ thuộc mọi mặt về chính trị, văn hóa, kinh tế, và cả quân sự trong tình trạng Trung Quốc ngày càng lấn chiếm đất liền và các vùng biển đảo của Việt Nam.
7) Nền chính trị đất nước bị tha hóa, bất lương hóa toàn diện. Dối trá nối tiếp dối trá. Lừa đảo nối tiếp lừa đảo. Bạo ngược nối tiếp bạo ngược. Các cơ quan đầu não của Nhà nước như Quốc hội, Tòa án, Chính phủ… khó được xem là đại diện cho quyền lợi của nhân dân. Một nền chính trị như vậy cực kỳ nguy hại cho dân tộc bởi vì nó phá hủy ý chí và tinh thần của cái thiện, cái công bằng, cái liêm chính, cái đạo đức trong xã hội, đồng thời nó phá hủy khả năng cộng đồng để phát triển và giữ nền tự chủ quốc gia.
Cho tới nay, Việt Nam vẫn còn là một trong vài nước rất ít ỏi trên thế giới duy trì chính thể độc tài, toàn trị của một đảng không chính danh. Chính quyền xóa bỏ các quyền tự do căn bản mà người dân. Chế độ này ngày càng bạo ngược, tham nhũng công khai bằng nhiều cách. Chính quyền vẽ ra và thông qua một cách khuất tất các dự án hàng tỉ đô la để chia chác bất chấp sự phản đối của dân chúng. Về ngoại giao thì chính quyền có biểu hiện bạc nhược tìm sự che chở của Trung Quốc, về nội trị thì đàn áp nghiệt ngã những người bất đồng chính kiến, phản đối xâm lược. Tính không trung thực và thiếu lương thiện đã trở thành lối hành xử thường nhật của nhà cầm quyền. Thượng bất chính, hạ tắc loạn, cho nên phong hóa dân tộc suy đồi, đạo đức dân tộc thoái hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mất đi không có gì là lạ. 
8) Chính sách gọi là “Đổi mới” của Đảng Cộng sản Việt Nam thật ra chỉ là sửa lại những gì mà họ đã liên tục phạm sai lầm.
Nền kinh tế của miền Nam trước ngày 30/4/1975 đã có rất nhiều căn bản để phát triển. Chính cuộc chiến “Chống Mỹ cứu nước” do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đã phá hủy cơ sở hạ tầng miền Nam, khiến miền Nam phải dồn sinh lực để chống trả thay vì phát triển. Sau năm tháng 4/1975, các chính sách đánh tư sản, xóa bỏ thành phần kinh tế tư nhân, ngăn sông cấm chợ, tuyên truyền tư tưởng thù địch với Thế giới tự do… trên thực tế đã đày cả nước vào đói nghèo. Chính sách “Đổi mới” của Đảng Cộng sản Việt Nam thực chất là sửa lại các sai lầm ghê gớm của chính họ, áp dụng lại nhiều yếu tố căn bản của cách quản lý kinh tế miền Nam trước đây. Tuy nhiên đấy chỉ là những đổi mới không triệt để.
Yếu tố chủ chốt của cách quản lý kinh tế, xã hội của miền Nam trước kia là tinh thần dân chủ và pháp trị. Đảng Cộng sản không dám áp dụng tinh thần đó, nên sự đổi mới chỉ nửa vời. Chính sách đổi mới rốt cuộc chỉ khơi dậy được một phần nhỏ tiềm năng dân tộc, và sau một khoảng thời gian là các khuyết tật của xã hội nảy sinh, lại đẩy đất nước rơi vào bế tắc. Hiện nay, nền kinh tế và chính trị Việt Nam đang nằm trong tay các nhóm lợi ích, đất nước đang kẹt trong bẫy thu nhập trung bình, và trong thế lệ thuộc mọi mặt vào Trung Quốc. Điều này cũng có nguyên nhân từ việc đổi mới không triệt để.
Ông Lý Quang Diệu, nhà lãnh đạo lỗi lạc được thế giới kính trọng, từng nói: “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi vì so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người thì Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực”.
Nếu lấy các tiêu chí về kinh tế, về xã hội, về chỉ số cạnh tranh, chỉ số phát triển con người, mức độ tham nhũng… để so sánh Việt Nam với các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Philippines… thì Việt Nam đứng sau cùng!
Với các thành quả quản lý đất nước như vậy, một nhà cầm quyền tự trọng và thực sự vì dân có thể tự hào không? Có thể kể lể công lao của mình không? Dân chúng có hài lòng không?
Những thành quả đó mang lại lợi ích cho dân chúng hay mang lại sự suy thoái cho đất nước?
T.Q.C.
Tác giả gửi BVN.

NHỮNG CHƯƠNG BỊ KIỂM DUYỆT BỎ CỦA HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - 1


NHỮNG CHƯƠNG BỊ KIỂM DUYỆT BỎ CỦA HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - 1

Xuân Nguyên7:23 AM


Hồi ký Nguyễn Hiến Lê 
(Giới thiệu những chương bị cắt bỏ khi in tại Việt Nam)
.
Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,...

Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.

Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.

Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.

Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.

Sau ngày 30/4 năm 1975, ông vẫn ở lại trong nước mà không chọn cách đi ra khỏi đất Việt, mặc dù ông cũng có điều kiện thực hiện việc đó. Lúc đầu, Ông cũng có cảm tình với "quân giải phóng", với Việt cộng. Nhưng chỉ sau môt thời gian ngắn ngủi, ông đã nhận ra nhiều điều và gửi gắm ít nhiều trong cuốn Hồi Ký của ông. Cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê đã được tái bản tại Việt Nam tới ngót 30 lần. Nhưng có 6 chương và nhiều đoạn bị cắt bỏ khi in tại Việt Nam. 

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thống nhất Bắc - Nam, chúng tôi đăng tải lại 6 chương Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê để chúng ta cùng hiểu tấm lòng, nhân cách và trí tuệ của một học giả uyên bác và có nhãn quan xa rộng, trong một cách nhìn độc lập và khách quan. (Tham khảo Wikipedia)
____________________

Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965) 
A. Miền Nam 
Gia đình Ngô Đình Diệm        
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại            
Chính sách nhà Ngô    
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62             
Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc   
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63             

B. Miền Bắc    Pháp mất hết quyền lợi            
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ         
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu      
Vụ Nhân văn - Giai phẩm        
Kinh tế phát triển rất chậm      
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam          

Chương XXI: Việt Nam Chia Hai
 
Chủ ý tôi là viết về gía đình và đời viết văn của tôi, nhưng không thề bỏ qua thời đại được, cho nên phải xen vài chương ngắn về chiến tranh độc lập và tình hình xã hội. Trong chương này và chương sau tôi sẽ ghi vài nét chính về chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình, tức chiến tranh Việt-Mĩ. Về chiến tranh Việt-Pháp tôi có được tạm đủ tài liệu (đã kê ở cuối chương XIX), về chiến tranh Việt-Mĩ, trái lại tôi chỉ có ba cuốn:

Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)

Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)

La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)

Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.

A- Miền Nam

Gia đình Ngô Đình Diệm

Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).

Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.

Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.

Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.

Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:

- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.

Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.

Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.

Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại

Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.

Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?

Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.

Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.

Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.

Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.

*

Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.

Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.


Chính sách nhà Ngô

Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là

• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.

• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.

Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.

Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.

Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.

Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)

Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)

Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.

Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.

Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.

Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.

Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.

Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.

Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62


Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.

- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.

- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.

Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.

Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.

Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc

Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.

Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.

Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.

Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63

Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.

Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.

Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.

Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.

Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.

Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.

Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.

Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.

Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.

Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.

Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,

Bài thứ nhất:

Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.


Bài thứ nhì:

Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.


Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:

Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!


Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.

 
B- Miền Bắc

Pháp mất hết quyền lợi

Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.

Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.

Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...

Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:

• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.

• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.

• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.

Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.

Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)

Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ

Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.

Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.

Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.

Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.

Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).

Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.

Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu

Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.

• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.

• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...

• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.

Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.

Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.

Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.

Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)

Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...

Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.

Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.

Vụ Nhân văn - Giai phẩm

Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.

Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...

Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).

Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...

Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.

Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.

Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".

Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.

Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.

Kinh tế phát triển rất chậm

Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!

Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.

Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.

Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam

Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.

Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:

• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,

• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,

• thi hành tự do dân chủ,

• thả tất cả tù nhân chính trị,

• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,

• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.

Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.

Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.

Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.

Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
 
Chú thích:
 
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.

[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- có 893.291 buổi dậy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.

[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.

[4] Năm 1981, ông được bầu làm chủ tịch nhà nước.

[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.