Bài đăng nổi bật

Nhập khẩu vũ khí của Việt Nam giảm xuống cực thấp bất chấp căng thẳng trong khu vực

  Nhập khẩu vũ khí của Việt Nam giảm xuống cực thấp bất chấp căng thẳng trong khu vực 14/03/2024 Reuters Triển lãm vũ khí ở Hà Nội, Việt Nam...

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018

Tuyên bố về các dự án BOT giao thông


Tuyên bố về các dự án BOT giao thông

Hoàng Dũng
30-7-2018
Các dự án đầu tư BOT (Build-Operate-Transfer) là dự án cơ sở hạ tầng do chính quyền kêu gọi công ty tư nhân bỏ vốn ra xây dựng qua đấu thầu, rồi vận hành thu phí để thu hồi vốn và lãi, và cuối cùng chuyển giao lại cho nhà nước. 
Nếu làm đúng vậy, thì các dự án BOT là rất tốt: nhà nước không phải bỏ vốn ra xây dựng; người sử dụng có hạ tầng để dùng với phí hợp lý; sau khi chuyển giao nhà nước có được cơ sở hạ tầng (dù đã có thể đã xuống cấp).
Dưới đây chỉ bàn đến các dự án BOT giao thông. Rất đáng tiếc ở Việt Nam, BOT không phải đúng nghĩa BOT như nêu trên. Tất cả các dự án BOT giao thông đã không được đấu thầu (mà được chỉ định thầu) cho nên khả năng đội vốn lên 2-3 lần là rất cao (khiến cho thời gian vận hành và thu phí kéo dài và thực chất là ăn cắp của người sử dụng); phần lớn các dự án BOT là cải tạo, nâng cấp các đoạn đường cũ (chứ không phải là xây mới); việc đặt các trạm thu phí BOT nhiều nơi không hợp lý (BOT Cai Lậy [Tiền Giang], Mỹ Lộc [Nam Định], Tân Đệ [Thái Bình],… và nhiều trạm BOT khác). Có nhiều dấu hiệu về sự câu kết của các cơ quan nhà nước với các chủ đầu tư trong việc chạy dự án BOT, xây dựng cũng như vận hành gây thiệt hại cho người tiêu dùng và nhà nước.
Chúng tôi ủng hộ phản ứng của dân chúng, các chủ phương tiện xe cộ và các thành viên của nhóm “Bạn hữu đường xa” để phản đối những bất hợp lý của những BOT giao thông, gây sức ép với Bộ Giao thông Vận tải và chủ đầu tư để dự án được minh bạch hơn.
Chúng tôi yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền rà soát lại tất cả bất hợp lý của các dự án BOT (từ vốn đầu tư, thời gian thu thí, mức phí đến vị trí của các trạm thu phí, cũng như điều tra các dấu hiệu câu kết, tham nhũng liên quan đến các dự án BOT) và chấn chỉnh để các dự án BOT thực sự là BOT chứ không phải là BOT trá hình.
[Xin vào đây để ký tên ủng hộ Tuyên bố này: Tuyên bố về các dự án BOT giao thông]

Hiệp định Genève (20-7-1954) không đề cập đến tổng tuyển cử


Hiệp định Genève (20-7-1954) không đề cập đến tổng tuyển cử

Trần Gia Phụng
30-7-2018
Vừa qua, trong kỳ thi Trung học Phổ thông ở trong nước, điểm thi môn lịch sử thấp hơn bao gờ cả. Lý do đơn giản là vì học sinh không thích học môn lịch sử nên không thuộc lịch sử và điểm thi môn lịch sử bị thấp. Hiện nay, học sinh trong nước không thích học môn lịch sử vì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (CSVN) dùng môn lịch sử để tuyên truyền cho chế độ, sửa đổi, bóp méo lịch sử để phục vụ chính trị, phục vụ đảng CS, nên học sinh chán học môn lịch sử của CS.
Một ví dụ đơn giản là gần đây, những tiến sĩ, phó tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư đại học, là những người có học vị và học hàm cao cấp của CS về lịch sử, đã tuân lệnh đảng CS, bịa đặt chuyện hiệp định Genève (20-7-1954) quy định việc tổng tuyển cử, để vu cáo rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955, ở Nam Việt Nam (NVN), vi phạm hiệp định Genève và biện minh cho chế độ CS Bắc Việt Nam (BVN) tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), về việc động binh gây chiến năm 1954.
1.- HAI BỘ SỬ CỦA CSVN VỀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Bộ sách Lịch sử Việt Nam gồm 15 tập, với 5,580 trang, viết từ thời cổ sử đến năm 2000, do nhiều tiến sĩ trong nước phụ trách soạn thảo và do tiến sĩ Trần Đức Cường làm tổng chủ biên. Bộ sách được giải nhứt “Giải vàng sách hay” năm 2015 của Hội Xuất Bản Việt Nam. Giải được phát vào năm 2016 và bộ sách được giới thiệu rầm rộ năm 2017. Đây là bộ thông sử quan trọng nhứt của cộng sản Việt Nam (CSVN) từ trước đến nay, với một ban biên soạn hùng hậu gồm nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và phó tiến sĩ CS.
Trong bộ nầy, tập 11, viết về giai đoạn từ năm 1951 đến 1954 do phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Nhật chủ biên, với tiến sĩ Đỗ Thị Nguyệt Quang và PGS.TS Đinh Quang Hải cùng soạn thảo. Vào gần cuối sách, trang 438, mục “Nội dung của Hiệp định Giơnevơ”, mở đầu bằng đoạn: “Hiệp định Giơnevơ gồm các văn bản chủ yếu sau: Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên. ‘Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ’ là văn bản quan trọng nhất của Hiệp định, nội dung tuyên bố gồm 13 điều, tóm tắt như sau …” (Người viết in đậm)
Theo các vị tiến sĩ nầy, tại hội nghị Genève, Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève được xem là văn bản quan trọng nhứt của hiệp định, và như thế thì Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được xem là văn bản phụ. Cách đánh giá nầy xem ra có vẻ lạ lùng, cần xem xét lại.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954, có chữ ký của đại diện bảy (7) phái đoànPháp, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Việt Minh, Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) tức Trung Cộng, Lào, Cambodge (Cambodia). Đại diện chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và đại diện chính phủ Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
Trong khi đó, bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” được bàn luận và soạn thảo ngày hôm sau, tức ngày 21-7-1954 khi những người tham dự họp bàn thêm mà thôi. Đặc biệt, bản tuyên bố nầy không có chữ ký của tất cả các phái đoàn tham dự. Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng, chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.
Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách đề nghị hay kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có phái đoàn nào ký tên cả. Bản tuyên bố không có chữ ký thì chỉ có tính cách gợi ý, dự kiến, đề nghị chứ không có tính cách cưỡng hành nghĩa là bắt buộc phải thi hành như một hiệp định. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có giá trị và có thể bắt buộc các đương cuộc phải thi hành?
Người đọc chỉ cần xem một văn kiện có chữ ký và một văn kiện không có chữ ký, thì biết ngay văn kiện nào là chính, văn kiện nào là phụ. Vì vậy, bản hiệp định có chữ ký chắc chắn phải là văn kiện chính so với một bản tuyên bố không có chữ ký. Các tác giả soạn sách nầy đều là giáo sư tiến sĩ, biết rõ văn bản nào quan trọng hơn, nhưng lại cố tình đưa bản “Tuyên bố cuối cùng…” là chính, còn hiệp định là phụ.
Qua tập 12 của bộ thông sử nầy, viết về giai đoạn từ năm 1954 đến 1965 do phó giáo sư tiến sĩ Trần Đức Cường chủ biên, với sự hợp tác của TS Nguyễn Hữu Đạo, TS Lưu Thị Tuyết Vân, trong mục “Đấu tranh chính trị, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng”, trang 214, các tác giả đã buộc tội Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay thế chính phủ QGVN từ năm 1955, như sau: “Nhưng như đã trình bày, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã phá hoại một cách có hệ thống Hiệp định Giơnevơ. Họ tăng cường xây dựng quân đội, cự tuyệt các quan hệ với miền Bắc và xé bỏ những điều khoản về Hiệp định về việc hiệp thương và tổ chức tổng quyển cử thống nhất đất nước…”
Các vị tiến sĩ nầy đã hùng hổ buộc tội Mỹ và chính phủ VNCH. nhưng các ông làm lơ không đưa ra chứng minh cụ thể là Mỹ và VNCH đã vi phạm hay phá hoại điều nào, xé bỏ khoản nào trong hiệp định Genève 20-7-1954, và các tác giả cũng không phân biệt mà lại cố tình đồng hóa, lẫn lộn giữa hiệp định Genève (20-7-1954) và Bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị Genève ngày 21-71954.
Hai tập 11 và 12 do các tác giả khác nhau viết, nhưng rõ ràng nhận định và lập trường các tác giả cả hai tập hoàn toàn giống nhau nghĩa là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam là văn bản phụ, còn bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” là văn bản chính, quan trọng hơn
Gần như đồng thời với bộ thông sử Lịch sử Việt Nam trên đây, là sách Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam qua tài liệu,tư liệu lưu trữ (1960-1975), dày 552 trang, soạn giả là Nguyễn Thị Thiêm, Trần Thị Vui, Lê Vị đều thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước – Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, một đơn vị rất chuyên môn về sử học, nơi lưu trữ hồ sơ, tài liệu sử học. Sách còn được biên soạn, dưới sự cố vấn khoa học của PGS.TS. Hà Minh Hồng, và do Nxb. Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, phát hành đầu năm 2016.
Về hiệp định Genève, ở trang 18, các soạn giả nầy viết: “Theo điều 7 của Hiệp định [Genève]con đường để củng cố hòa bình, thống nhất đất nước sẽ “thực hiện tổng tuyển cử tự do bằng bầu phiếu kín”. Các cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một ban quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong ban giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định. Kể từ ngày 20-7-1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc hiệp thương về vấn đề đó”. (Người viết in đậm)
Khác với những tác giả viết bộ thông sử Lịch sử Việt Nam, các soạn giả sách nầy tráo đổi điều 7 của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam gọi tắt là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 với điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954 không có ai ký.
Cũng như các tác giả bộ thông sử Lịch sử Việt Nam tập 11 và tập 12, các tác giả sách về Mặt trận miền Nam dư trình độ để biết rõ nội dung hai văn bản trên đây khác nhau, nhưng lại tráo đổi điều 7 của hai văn bản nầy, chắc chắn phải có dụng ý. Để thấy rõ sự tráo đổi nầy, xin đi vào nội dung đích thực của điều 7 hiệp định Geneve.
2.-  NỘI DUNG ĐÍCH THỰC CỦA ĐIỀU 7 HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Để người đọc dễ theo dõi, sau đây xin trích dẫn nguyên văn điều 7 của hiệp định Genève bằng tiếng Việt: “Không người nào, quân đội hay dân sự, sẽ được cho phép vào khu phi quân sự ngoại trừ người liên quan tới với sự hướng dẫn của ban quản lí (ban hành chính) và cứu tế dân sự, và người đặc biệt được quyền vào bởi Uỷ ban Liên hợp”.
Để đối chiếu, xin trích dẫn tiếp điều 7 của hiệp định Genève bằng tiếng Pháp: “Aucune personne, militaire ou civile, ne pourra pénétrer dans la zone démilitarisée, à l’exception des personnes responsables de l’administration civile et de l’organisation des secours, ainsi que des personnes expressément autorisées à y pénétrer par la Commission mixte. ” (Vào Google, chữ khóa: Accords sur la cessation des hostilités en Indochine (Genève, 20-21 juillet 1954) Texte.)
Trong khi đó, điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” cũng được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Bản tiếng Việt nguyên văn như sau: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó”. (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53.)
Điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng…” bằng tiếng Pháp như sau: “La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam, le règlement des problèmes politiques, mis en œuvre sur la base du respect des principes de l’indépendance, de l’unité et de l’intégrité territoriales, devra permettre au peuple vietnamien de jouir des libertés fondamentales, garanties par des institutions démocratiques formées à la suite d’élections générales libres au scrutin secret. Afin que le rétablissement de la paix ait fait des progrès suffisants et que soient réunies toutes les conditions nécessaires pour permettre la libre expression de la volonté nationale, les élections générales auront lieu en juillet 1956, sous le contrôle d’une commission internationale composée de représentants des Etats membres de la Commission internationale pour la surveillance et le contrôle visée à l’accord sur la cessation des hostilités. Des consultations auront lieu à ce sujet entre les autorités représentatives compétentes des deux zones à partir du 20 juillet 1955”. (Vào Google, chữ khóa: Déclaration finale en date du 21 juillet 1954, de la Conférence de Genève sur le problème du rétablissement de la paix en Indochine.)
Phân biệt điều 7 của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 với điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” đồng ý bằng miệng ngày 21-7-1954, rõ ràng hoàn toàn khác nhau cả về nội dung lẫn tính chất.
Các tác giả soạn sử của CS, kể cả những giáo sư, tiến sĩ sử học, chắc chắn đủ trình độ để biết nội dung đích thực của hai điều 7 trong hai văn bản của hội nghị Genève, nhưng cố tình tráo đổi vị trí và từ đó tráo đổi cả ý nghĩa của các điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự và trong “Bản tuyên bố cuối cùng”, nhằm mục đích cáo buộc chính phủ VNCH vi phạn hiệp định Genève, trong khi chính đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản và nhà nướcVNDCCH đã vi phạm hiệp định từ khi hiệp định chưa được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3.- CỘNG SẢN BẮC VIỆT NAM VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954, Hồ Chí Minh họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), Trung Hoa từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là “Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).
Sau khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954, trong khi lực lượng QGVN lo rút hết quân về Nam vĩ tuyến 17, thì CS chôn giấu võ khí, lưu 10.000 cán bộ, đảng viên ở lại, và còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại Nam Việt Nam như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam. Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống CS ở Nam VN. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương đảng (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Như thế chính đảng Lao Động và nhà nước VNDCCH vi phạm hiệp định Genève, mà các tác giả CS, kể cả các tiến sĩ, giáo sư phó giáo sư, trắng trợn thay trắng đổi đen, bóp méo lịch sử, nhằm phục vụ chủ trương chính tị của chế độ CS, viết sai sự thật lịch sử để vu cáo và buộc tội chính phủ VNCH vi phạm hiệp định Genève và biện minh cho lý do CS Bắc Việt Nam động binh tấn công Nam Việt Nam.
Sự thật là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, thuần túy có tính cách quân sự, mà không đề cập đến việc tổng tuyển cử. Điều nầy chỉ được đề nghị tại bản “Tuyên bố cuối cùng …” ngày 21-7-1954, không có chữ ký và không bắt buộc thi hành, nên Quốc Gia Việt Nam, đổi thành Việt Nam Cộng Hòa năm 1955, không cần thi hành và không vi phạm hiệp định Genève.
KẾT LUẬN
Vấn đề điều 7 của hiệp định Genève và điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” quá rõ ràng và đơn giản, nhưng các tiến sĩ soạn giả của hai cơ quan chuyên nghiên cứu sử trình bày lẫn lộn không phải vì không biết, mà chắc chắn các ông nầy viết theo lệnh của đảng CSVN, phục vụ nhu cầu chính trị của đảng CSVN, giành lấy chính nghĩa cho nhà nước CS Bắc Việt Nam, trong khi nhà nước nầy chính là kẻ hiếu chiến, gây hấn và xâm lăng.
Ví dụ trên đây đơn giản, nhưng quan trọng ở chỗ đưa đến những nhận thức sai về nguyên nhân chiến tranh, về bản chất các chế độ liên hệ trong cuộc chiến, và còn cho thấy các bộ sử do các tác giả CS biên soạn, dầu học vị tiến sĩ, phó tiến sĩ, học hàm giáo sư, phó giáo sư về sử học, không đáng tin cậy. Như thế làm sao các anh chị em thanh niên, sinh viên học sinh trong nước có thể tin tưởng để học sử? Vì vậy, không lấy làm lạ điểm thi môn sử trong các kỳ thi Trung học ở trong nước càng ngày càng thấp.
Điều lạ là tại sao các giáo sư tiến sĩ CS, chữ nghĩa đầy mình, biết rõ sự thật lịch sử, mà vẫn cam tâm cúi đầu vâng phục chế độ CS, sửa đổi lịch sử theo chủ trương của đảng CS. Điều nầy chứng minh cụ thể câu nói của tiến sĩ Angela Dorothea Markel, thủ tướng Cộng Hòa Liên Bang Đức phát biểu tại Berlin, ngày 07-05-2009: “Chủ nghĩa cộng sản đã tạo nên những con người đối trá”.

Được an ninh đến chơi nhà


Được an ninh đến chơi nhà

LTS: Nhà thơ Thái Bá Tân cho biết: “Chiều nay an ninh gọi điện, bảo sắp tới sẽ đến chơi nhà. OK, lúc nào cũng được“. Và ông đã làm một số bài thơ về vụ này.
____
30-7-2018
1
Đã vượt qua nỗi sợ,
Nay tôi chẳng sợ gì,
Ngoài dân tình loạn lạc,
Chiến tranh và chia ly.
2
Xã hội có phản biện
Là phúc cho nước nhà.
Người dân còn phản đối
Càng phúc cho nước nhà.
Là vì dân chưa chết,
Còn day dứt với đời.
Và quan trọng hơn cả –
Còn muốn được làm người.
3
Một cái trước tưởng đúng,
Bây giờ có thể sai.
Nếu thấy sai thì sửa.
Sửa cũng không chết ai.
Đảng tiếp tục đổi mới,
Dân chúng sẽ được nhờ.
Bỏ giáo điều cổ lỗ,
Dân chúng càng được nhờ.
3
Ba mươi năm đổi mới,
Đất nước khá hơn xưa.
Có tự do, dân chủ,
Dẫu chỉ mức vừa vừa.
Kinh tế phát triển tốt.
Dân có ăn, có tiêu.
Phải ghi nhận điều ấy
Công nhà nước rất nhiều.
Nhà nước đã cho phép
Người dân được kiếm tiền.
Trong chừng mực nào đó
Còn có cả nhân quyền.
4
Tôi chỉ nói sự thật,
Không muốn lật đổ ai.
Do không biết toàn cục
Nên có thể nói sai.
Nói sai thì xin nhắc.
Các anh thấy bài nào
Không đúng, không có lợi,
Tôi gỡ xuống, không sao.
Vì tôi và nhà nước
Chung mục đích – hết mình
Mong xã hội ổn định,
Dân hạnh phúc, an bình.
Yên tâm, để tôi nói,
Chừng mực và biết điều.
Một khi chán, không nói,
Mới đáng ngại hơn nhiều…
*
Tôi đã nói như thế
Trong chuyến thăm vừa rồi
Của một bác từ Bộ,
Ngỏ ý đến nhà tôi.
Khiêm tốn và lịch sự,
Thưa gửi rất đàng hoàng.
Nói chung là dễ mến,
Lời lẽ cũng nhẹ nhàng.
Bác còn mua ủng hộ
Cuốn Lược Sử Diễn Ca.
Tôi tặng thủ trưởng bác
Cuốn Đức Phật Thích Ca.
Thế đấy, mọi chuyện ổn
Khi ta nói Với nhau.
Ngược lại, sẽ không ổn
Khi chỉ nói VỀ nhau.
Bằng chứng – Chưa thấy bác
Gọi điện yêu cầu tôi
Gỡ bỏ bài nào đó.
Thế là tốt lắm rồi.
Bài học – thấy bức xúc,
Mọi người chê thì chê,
Nhưng đàng hoàng, xây dựng,
Không báng bổ nặng nề.

Cựu trung tướng, phó tổng cục tình báo Bộ Công an Việt Nam, lãnh 7 năm tù


Cựu trung tướng, phó tổng cục tình báo Bộ Công an Việt Nam, lãnh 7 năm tù

30-7-2018

Các bị cáo Phan Văn Anh Vũ (áo sọc), Phan Hữu Tuấn (áo trắng) và Nguyễn Hữu Bách (áo xanh đen) tại TAND Hà Nội hôm nay. Ảnh: Xuân Hoa/ VNE

Ngày 30-7, TAND TP.Hà Nội đã xử kín vụ Vũ nhôm và nguyên tướng tình báo “cố ý làm lộ bí mật nhà nước”. Tòa tuyên Phan Văn Anh Vũ 9 năm tù, cựu trung tướng Phan Hữu Tuấn – 7 năm tù – nguyên Tổng cục phó Tổng cục Tình báo – Bộ Công an và 6 năm tù đối với Nguyễn Hữu Bách (55 tuổi), cán bộ Bộ Công an. 
Trước khi bị bắt, Phan Văn Anh Vũ mang quân hàm thượng tá. Vũ được biết đến tên thường gọi là Vũ “nhôm”. Khi bị bắt Vũ là Chủ tịch HĐQT Công ty CP xây dựng Bắc Nam 79; nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nova Bắc Nam 79, (nay là Công ty CP đầu tư và phát triển Chấn Phong). Cty của Vũ sở hữu hàng chục bất động sản mà cơ quan điều tra xác định là có vi phạm trong mua bán công sản tại trung tâm TP.Đà Nẵng.
Tháng 12-2017, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố bị can đối với ông Phan Văn Anh Vũ về tội cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước, theo điều 263 bộ luật Hình sự 1999. Theo đó, với tội danh này có khung hình phạt cao nhất lên đến 15 năm tù.
Đến tối 21-12-2017, cơ quan điều tra Bộ Công an khám xét nhà riêng của ông Vũ ở Đà Nẵng, tuy nhiên ông Vũ đã bỏ trốn trước đó. Ngay sau đó cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an đã ra quyết định truy nã đối với Vũ.
Ngày 2-1, Cơ quan Xuất nhập cảnh và Cửa khẩu Singapore (ICA) tạm giữ người có tên Phan Van Anh Vu từ ngày 28/12/2017 vì vi phạm Luật di trú.
Đến chiều 4-1, chuyến bay Vietnam Airlines từ Singapore về Hà Nội chở ông Vũ đã hạ cánh tại sân bay quốc tế Nội Bài. Ngay sau đó, Bộ Công an phát thông báo cho biết cơ quan điều tra đã tiếp nhận, bắt bị can Vũ để điều tra.
Ngày 7-2, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an tiếp tục khởi tố bị can, tạm giam 4 tháng đối với Vũ về hành vi Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để làm rõ vi phạm pháp luật của người này và các cá nhân, tổ chức có liên quan trong việc mua, bán các nhà, đất công sản tại địa bàn TP Đà Nẵng và một số tỉnh, thành phố khác.
Ngày 18-4, Phan Văn Anh Vũ bị khởi tố về tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản để điều tra về khoản tiền 200 tỷ Ngân hàng Đông Á bị thất thoát.
Ngoài vụ án “cố ý làm lộ bí mật nhà nước” sắp bị đưa ra xét xử, Vũ “nhôm” còn đang bị điều tra về hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, trốn thuế…
Thứ trưởng và Cựu thứ trưởng Bộ Công an liên quan đến Vũ nhôm thế nào?
Liên quan đến Vũ “nhôm”, ngày 28-7, tại trụ sở T.Ư Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư họp dưới sự chủ trì của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Tại cuộc họp, sau khi xem xét tờ trình của Ủy ban Kiểm tra T.Ư về việc đề nghị xem xét, thi hành kỷ luật trung tướng Bùi Văn Thành, Ủy viên Ban Chấp hành (BCH) Đảng bộ Công an T.Ư, Thứ trưởng Bộ Công an, Bộ Chính trị nhận thấy, ông Bùi Văn Thành, với cương vị Ủy viên BCH Đảng bộ Công an T.Ư, Thứ trưởng Bộ Công an trực tiếp phụ trách Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật, cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật.
Cá nhân ông Thành đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm tại Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật; vi phạm các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước và quy chế làm việc của Bộ Công an; ký văn bản của Bộ Công an đề xuất bán chỉ định một số cơ sở nhà, đất an ninh không đúng quy định pháp luật; ký một số văn bản không thuộc trách nhiệm được phân công; tự ý ký quyết định cho Phan Văn Anh Vũ tham gia đoàn đi nước ngoài và đề nghị cấp hộ chiếu ngoại giao cho Phan Văn Anh Vũ không đúng đối tượng, không đúng tiêu chuẩn.
Bộ Chính trị khẳng định, những vi phạm của ông Bùi Văn Thành gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của tổ chức đảng, ngành công an và cá nhân, gây dư luận xấu và bức xúc trong xã hội. Từ đó, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật ông Bùi Văn Thành bằng hình thức cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng (gồm: Ủy viên BCH Đảng bộ Công an T.Ư nhiệm kỳ 2016 – 2021; Ủy viên BCH Đảng bộ Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật Bộ Công an nhiệm kỳ 2010 – 2015).
Bộ Chính trị giao Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo thực hiện quy trình xử lý kỷ luật về hành chính và giáng cấp bậc hàm đối với ông Bùi Văn Thành, bảo đảm đồng bộ, kịp thời, tương xứng với kỷ luật của Đảng theo quy định.
Cũng tại cuộc họp trên, sau khi xem xét tờ trình của Ủy ban Kiểm tra T.Ư về việc đề nghị xem xét, thi hành kỷ luật thượng tướng Trần Việt Tân, nguyên Ủy viên BCH Đảng bộ Công an T.Ư, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.
Bộ Chính trị nhận thấy ông Trần Việt Tân trong thời gian giữ cương vị Ủy viên BCH Đảng bộ Công an T.Ư, Thứ trưởng Bộ Công an, đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, đã ký một số văn bản vi phạm quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của ngành công an và cá nhân, gây dư luận xấu trong xã hội.
Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật ông Trần Việt Tân bằng hình thức cách chức Ủy viên BCH Đảng bộ Công an T.Ư nhiệm kỳ 2011 – 2016. Giao Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo thực hiện quy trình xử lý kỷ luật về hành chính và giáng cấp bậc hàm đối với ông Trần Việt Tân bảo đảm đồng bộ, kịp thời, tương xứng với kỷ luật của Đảng theo quy định.
Như vậy, đến thời điểm này, có ba tướng lĩnh cao cấp của Bộ Công an bị xử lí liên quan đến các vi phạm của Vũ “nhôm”.
____
Mời xem clip chiếu cảnh phiên tòa của báo VnExpress:
Video Player
00:00
00:56

Vì sao nhiều cán bộ cấp cao của đảng và nhà nước cũng sợ Vũ ‘nhôm’?


Vì sao nhiều cán bộ cấp cao của đảng và nhà nước cũng sợ Vũ ‘nhôm’?

30-7-2018
Trong số các tướng lãnh công an bảo kê cho Vũ nhôm đã và đang chuẩn bị vào lò, có 2 tướng từng là Tổng cục trưởng và Tổng cục phó Tổng cục Tình báo và 1 tướng là đương kim Thứ trưởng Bộ Công an. Còn Vũ nhôm được phong là thượng tá thuộc Tổng cục này.
Cơ quan tình báo Bộ Công an đương nhiên phải hoạt động theo luật pháp, nhưng do chức năng đặc biệt của nó, nó là cơ quan hoạt động bí mật. Các báo cáo về điệp báo, về phản gián, về xây dựng lực lượng của cơ quan này đều là những tài liệu an ninh quốc gia tuyệt mật, chỉ một số rất ít người lãnh đạo Bộ Công an được biết. Ngay cả trong Chính phủ và Bộ Chính trị, những người được biết cũng không nhiều.
Nếu như cơ quan này tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của luật pháp và quy chế hoạt động, thì chẳng có vấn đề gì đáng nói và chẳng có người lương thiện nào sợ nó. Người ta chỉ sợ nó khi phát hiện ra các dấu hiệu vô pháp lộ ra từ cơ quan này. Và Vũ nhôm chính là kẻ chủ động để lộ các hoạt động vô pháp đó. Vì sao vậy?
Các sĩ quan nghiệp vụ chân chính của Tổng cục này đều hoạt động thầm lặng. Còn Vũ nhôm chui vào đây không phải để làm việc vì nước vì dân mà để trục lợi. Việc anh ta thâu tóm công sản đều do các vị tướng này hậu thuẫn, nhưng như vậy đối với anh ta vẫn chưa đủ. Anh ta muốn thâu tóm tất cả những gì anh ta muốn.
Tại Đà Nẵng, sau khi ông Nguyễn Bá Thanh không còn làm Bí thư, vị Bí thư mới của Thành ủy không ủng hộ anh ta thâu tóm một số dự án, anh ta đã đưa thẻ ngành ra đe dọa, đồng thời sử dụng báo chí công bố những tài liệu bất lợi cho vị này nhằm mục đích răn đe.
Và để hù dọa những nơi khác, anh ta chủ động công bố một số “tài liệu mật” trên mạng xã hội. Đó là những tài liệu không ai có thể xác minh là có thật hay không, nhưng có tác dụng gây sợ hãi. Tôi nói những tài liệu này do Vũ nhôm chủ động công bố vì nếu đó là những tài liệu có thật thì trừ anh ta ra không ai dám để lộ ra ngoài. Anh ta công bố vì anh ta tin không ai có thể làm gì được các tướng lãnh siêu quyền lực kia.
Không chỉ các quan chức địa phương sợ anh ta mà ngay cả nhiều vị bộ trưởng và cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước cũng sợ anh ta. Họ không thể biết các “tài liệu mật” trôi nổi trên mạng là có thật hay không, nhưng nếu như có thật thì đều là những văn bản được ban hành phi pháp. Họ sợ anh ta là vì nếu không làm hài lòng anh ta thì rất có khả năng những kẻ bảo kê cho anh ta nhân danh cơ quan tình báo, sẽ làm báo cáo vu khống họ là “địch”. Những báo cáo kiểu này là tuyệt mật, không thể xác minh, sẽ nằm ở đâu đó đe dọa sinh mệnh chính trị của họ. Họ mặc nhiên nghĩ rằng, những kẻ tạo ra các văn bản mật một cách phi pháp để bảo kê cho Vũ nhôm đều có khả năng tạo ra các báo cáo vu khống.
Trong bài trước tôi có nhắc đến việc dời một cơ quan công an địa phương để giao đất cho Vũ nhôm. Đó là việc tôi có nghe nói. Cần biết rằng, bán các công sản như trụ sở của sở, ban, ngành của địa phương là thuộc thẩm quyền của UBND thành phố, chỉ cần có các văn bản mật “thần thánh” hù dọa, nhưng bán trụ sở của cơ quan công an cho Vũ nhôm, dù là công an phường, cũng phải có sự đồng ý của Chính phủ, cho nên không thể không có một văn bản đồng ý của Chính phủ nhiệm kỳ trước do một Phó Thủ tướng phụ trách các lĩnh vực liên quan đến đất đai tài sản ký theo đề nghị của Bộ Công an và Bộ Tài chính. Vị Phó Thủ tướng này hoặc là tin vào đề nghị của Bộ Công an hoặc là không dám động đến cơ quan tình báo. Điều này là suy đoán của tôi, sự suy đoán đó là có cơ sở, bởi vì UBND thành phố Đà Nẵng không thể tự mình làm việc này nếu không có sự đồng ý của Chính phủ.
____
(Update : Hôm nay 30-7, Tòa án ND TP.Hà Nội trong một phiên xử kín, đã tuyên phạt Vũ nhôm 9 năm tù, phạt cựu trung tướng Phó Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo Bộ Công an Phan Hữu Tuấn 7 năm tù và phạt ông Nguyễn Hữu Bách, nguyên cán bộ Bộ Công an 6 năm tù về tội làm lộ bí mật Nhà nước, theo quy định tại điều 337, bộ luật Hình sự. Nghe nói chỉ có tội danh làm lộ bí mật nhà nước được xử kín, còn các tội danh khác của Vũ nhôm và đồng phạm sẽ được xử công khai).