Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2019

Hai nghi phạm giết tài xế Grab có được quyền im lặng?

Hai nghi phạm giết tài xế Grab có được quyền im lặng?

1-10-2019
Vụ giết tài xế Grab để cướp xe máy, cơ quan điều tra đã bắt được các nghi phạm. Ngay sau khi bắt cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai, đông đảo quan tâm ngóng xem kẻ bị bắt có thừa nhận không và nguyên nhân động cơ mục đích nào khiến chúng ra tay sát hại như vậy?
Trong bối cảnh đó, khi mà người dân đang nôn nóng đợi thông tin từ lời khai của nghi phạm, nếu mà nêu ra vấn đề quyền im lặng thì sẽ nhận được sự tức giận của cộng đồng.
Vậy chẳng lẽ quyền im lặng chỉ áp dụng đối với những vụ ít nghiêm trọng, còn những nghi phạm giết người tàn bạo thì không được quyền im lặng?
Điều này đương nhiên là không đúng, nhưng luận giải ra sao, tính khoa học và sức thuyết phục đến đâu sẽ giúp cộng đồng hiểu và đồng tình về quyền im lặng.
Do hiểu sai vấn đề
Ngay sau khi bắt cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai, mục đích xem nghi phạm có thừa nhận không và nguyên nhân động cơ mục đích nào dẫn đến phạm tội.
Vậy để xem nghi phạm có được quyền im lặng không ta hãy xét xem cái mục đích nêu trên có xác đáng không, từ đó xem việc lấy lời khai có phải là việc phải làm không thể thiếu được khi giải quyết một vụ án?
Thứ nhất, về vấn đề xác định nguyên nhân động cơ mục đích phạm tội. Tôi cho rằng đang tồn tại một cách hiểu sai xung quanh vấn đề này.
Tôi cho rằng việc xác định nguyên nhân động cơ mục đích gây án, đó là sự suy nghiệm của cán bộ điều tra nhằm mục đích khoanh vùng và xác định nghi phạm.
Cán bộ điều tra đứng trước hiện trường và các manh mối dấu vết, họ hình dung nhận định về nguyên nhân động cơ mục đích gây án để từ đó lần theo nghi phạm.
Ví như xác chết có mặc áo Grab thì xác định là tài xế chạy xe, không thấy xe máy đâu thì khả năng bị cướp, đối tượng có thể là khách gọi xe, động cơ gây án có thể là cướp tài sản.
Như thế, việc xác định nguyên nhân động cơ mục đích gây án có ý nghĩa ở giai đoạn trước khi bắt được nghi phạm chứ không phải là bắt được rồi mới hỏi xem nguyên nhân động cơ mục đích gây án là gì.
Vì khi đã bắt được rồi dựa vào mối quan hệ nhân thân giữa nghi phạm và nạn nhân thì dễ dàng nhận ra nguyên nhân động cơ mục đích đằng sau, việc xác định không còn khó nữa.
Nếu hiểu vấn đề như thế sẽ thấy bớt đi một lý do phải lấy lời khai.
Vấn đề thứ hai, có ý kiến cho rằng phải lấy lời khai xem nó có thừa nhận không để mà kết tội, chứ nó không khai thì làm sao kết tội được?
Tôi cho rằng dù nghi phạm chối cãi không nhận hoặc im lặng không trả lời thì vẫn có cơ sở để kết tội. Cơ sở để kết tội đó chính là những cơ sở bằng chứng đã giúp bắt được nghi phạm.
Những dấu vết bằng chứng nào đã giúp cơ quan điều tra xác định được nghi phạm và bắt hắn, đó cũng chính là những bằng chứng để tòa án kết tội bị cáo.
Ví như bản ảnh nhân dạng nghi phạm đã được nạn nhân chụp gửi trước lúc chạy xe và bị giết, hình xăm trên cánh tay nghi phạm, chiếc xe máy thu giữ được.
Do vậy không cần nghi phạm phải khai báo nữa, nếu nghe rấ có thể là những lời nói dối. Cho nghi phạm quyền im lặng, các cơ quan tố tụng hoàn toàn có thể yên tâm mà phán rằng: Cho mày im lặng, dù có im lặng không khai thì vẫn có đủ cơ sở để kết tội.
Tóm lại là chính những cơ sở đã giúp cơ quan điều tra xác định và bắt được nghi phạm, đó cũng chính là bằng chứng để tòa án kết tội bị cáo. Việc điều tra phải làm là thu thập những dữ liệu kia chuyển hóa thành chứng cứ hợp pháp.
Cho nên kể từ sau khi bị bắt, nếu bị can im lặng không khai thì cũng không phải việc điều tra giải quyết bị bế tắc không làm gì được.
Do vậy có thể khẳng định nghi phạm vụ án giết người tàn bạo vẫn được quyền im lặng. Điều này cũng không phải là khiến vụ án bế tắc không giải quyết được. Mặc dầu vậy vẫn nên lấy lời khai, việc đặt câu hỏi và chờ đợi phản ứng của nghi phạm cũng giúp thấy được nhiều điều.
Vì đừng quên là quyền im lặng tồn tại trong ‘môi trường kết án’ có tính ‘đoán định’ và ‘phán xét’. Theo đó, đứng trước sự ‘đoán định’ thì ‘thái độ im lặng’ cũng cho thấy nhiều điều.
Nếu việc đặt câu hỏi là đúng mực không bức ép, vì đã có luật sư tham gia hoặc được ghi âm ghi hình lại, mà nghi phạm vẫn từ chối trả lời thì người ta có thể đoán định nghi phạm là thủ phạm.
Nếu nghi phạm không là thủ phạm thì không việc gì phải lo lắng mà cần hợp tác trả lời các câu hỏi để giúp cho việc điều tra phá án, giống như sự trả lời của một nhân chứng. Còn đứng trước các tình tiết dữ kiện được nêu ra và khi bị đặt câu hỏi lại ấm ớ không đưa ra câu trả lời được thì người ta sẽ nghi ngờ anh phạm tội.
Cho nên quy định về quyền im lặng không phải là khép lại cánh cửa của cơ quan điều tra, mà nó đơn giản là đòi hỏi một cung cách làm việc khác cần nhiều hơn về trình độ nghiệp vụ.
Quyền im lặng nói riêng và các quy trình thủ tục tố tụng hình sự nói chung là thành tựu của văn minh nhân loại (đã được thể hiện trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp Quốc) đã được đúc rút ra mà người ta hy vọng nếu cứ làm theo đó thì con người có thể đạt đến công lý.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét