Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2020

Biển Đông dậy sóng: Việt Nam từng tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… (Phần 2)

Biển Đông dậy sóng: Việt Nam từng tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… (Phần 2)

25-4-2020
Tiếp theo Phần 1
Quang cảnh Hội nghị Hòa bình San Francisco 1951. Ảnh: internet
Sau khi chấm dứt chiến tranh thế giới thứ 2, các nước liên quan đến khu vực Châu Á – Thái Bình Dương mở Hội nghị Hòa bình từ ngày 4.9.1951 đến ngày 8.9.1951, với sự tham dự của 51 quốc gia. Hội nghị tổ chức tại thành phố San Francisco của Mỹ và ký Hiệp ước San Francisco.
Vì sau chiến tranh nảy sinh chủ quyền Biển Đông do Nhật Bản chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền trước đó nên nhiều nước muốn có hiệp ước phân định lại rõ ràng sau khi giải giáp quân đội Nhật Bản và Hiệp ước San Francisco ra đời.
Tại Hội nghị Hòa bình San Francisco, Nhật Bản từ bỏ những tuyên bố chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Nhưng đại diện Nhật Bản lúc bấy giờ không tuyên bố bàn giao lại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho bất cứ nước nào.
Do đại diện Nhật Bản không tuyên bố bàn giao vì vậy nó nằm dưới sự giám hộ tập thể của 48 bên khác trong Hiệp ước, trong đó có Việt Nam, để phân định chủ quyền dựa vào các yếu tố khác.
Nước Việt Nam năm 1951 có hoàn cảnh lịch sự đặc biệt, sơ lược như sau đây.
Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị giao ấn kiếm cho ông Trần Huy Liệu, mặt trận Việt Minh thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, vào năm 1945.
Năm 1948 Pháp sau khi quay lại Việt Nam đã ký kết với Cựu hoàng Bảo Đại và thành lập Nhà nước với tên gọi Quốc gia Việt Nam đặt Thủ đô tại Sài Gòn, do Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng. Tuy vậy, Quốc gia Việt Nam cho đến khi chấm dứt tồn tại vào năm 1955 vẫn chưa có Quốc hội và Hiến pháp. Năm 1951 Thủ tướng Quốc gia Việt Nam là ông Trần Văn Hữu kiêm cả chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Sau đó như chúng ta đã biết, Hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, phía Bắc thuộc Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phía Nam thuộc Quốc gia Việt Nam đến 1955 chuyển sang Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975 toàn Việt Nam thuộc về Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Không rõ lúc bấy giờ ra sao nhưng đại diện cho nước Việt Nam đến dự Hội nghị Hòa bình San Francisco 1951 và ký hiệp ước là Cụ Trần Văn Hữu với tư cách Thủ tướng Quốc gia Việt Nam.
Sau khi Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tới phần phát biểu của đại diện Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu lập tức tuyên bố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại hội nghị, Tuyên bố của đại diện Việt Nam không có quốc gia nào trong số 51 quốc gia phản đối, ngoại trừ Phillipines cũng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Nước Trung Quốc vào thời điểm năm 1951 tồn tại quan hệ ngoại giao quốc tế gồm hai nhà nước là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc. Cho đến năm 1971, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Hội nghị Hòa bình San Francisco cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa. Nhưng khi Hiệp ước San Francisco phát hành cũng không bị đại diện nào của Trung Hoa Tuyên bố phản đối đối với Tuyên bố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau Hiệp ước San Francisco 1951, cục diện chính trị nhiều quốc gia thay đổi, nhưng hiệp ước vẫn đang hiệu lực. Các quốc gia kế thừa thể chế cũ phải kế thừa quyền lợi nghĩa vụ quốc tế mà thể chế cũ thực hiện tại các hiệp ước đa phương quốc tế.
Hiệp ước San Francisco 1951 là một hiệp ước lớn, ảnh hưởng liên quan đến cả khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên các tuyên bố ở Hiệp ước này là một trong nhưng bằng chứng cứ chủ quyền có giá trị. Nếu như hiện nay Việt Nam tiến hành khởi kiện quốc tế chủ quyền biển đảo với TQ thì đây là một trong các căn cứ mà các luật sư, luật gia cần phải đưa vào.
***
Điều II, Chương II của Hiệp ước San Francisco 1951: “Nhật Bản phải từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với Triều Tiên (khoản a), Đài Loan và Bành Hồ của Trung Quốc (khoản b), quần đảo Kouriles, một phần đảo Sakhalin và các đảo kế cận của Liên Xô (khoản c), các đảo ở Thái Bình Dương dưới quyền uỷ trị của Nhật Bản (khoản d), bất kỳ bộ phận nào của vùng Nam Cực xuất phát từ bất cứ hoạt động nào của Nhật Bản (khoản e), quần đảo Spratly và quần đảo Paracel (khoản F).
(Ghi chú: quần đảo Spratly là Trường Sa và quần đảo Paracel là Hoàng Sa).
***
Biển Đông đang dậy sóng chủ quyền. Chưa bao giờ chúng ta “nhìn rõ” chủ quyền biển đảo bị mất như lúc này, cũng chưa bao giờ cơ hội tranh đấu bằng lý lẽ đòi biển đảo lớn như lúc này. Trung Quốc ngang ngược thì ai cũng biết. Nhưng nhiều thông tin từ những nơi đáng ngờ trong nước làm cho nhiều người ít quan tâm về biển đảo khó biết rõ vị trí pháp lý quốc tế của Hoàng Sa, Trường Sa trên mặt trận công pháp quốc tế. Trên tinh thần diễn đạt đơn giản dễ hiểu các điều luật về biển, chúng tôi viết loạt bài này nhằm xin trình bày ngắn gọn một số điểm cơ bản trong vị thế pháp lý của biển đảo Việt Nam. Chúng tôi không trình bày khoa học pháp lý mà trình bày diễn giải để dành cho người ít có điều kiện đọc, họ nhanh chóng hiểu rõ. Chúng tôi rất thành tâm mong được các bậc thức giả chỉ giáo thêm cho.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét