Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2021

Trung Quốc bẻ cong luật lệ ở Biển Đông như thế nào

 

Trung Quốc bẻ cong luật lệ ở Biển Đông như thế nào

Lowy Institute

Tác giả: Oriana Skylar Mastro

Chuyển ngữ: Hoàng Thủy Ngữ

17-2-2021

Tàu cá Trung Quốc cập cảng ngày 18/11/2019, trước khi mạo hiểm vào Biển Đông. Nguồn: Artyom Ivanov / TASS/ Getty

Các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng trước, và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ, cho thấy những vùng biển tranh chấp này sẽ không sớm lắng dịu. Nếu các cuộc diễn tập quân sự là chủ yếu thì việc tranh chấp về các vị trí pháp lý cũng đang nông dần lên.

Năm ngoái, cả Mỹ và Úc đều chọc giận Trung Quốc khi chính thức tuyên bố những yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông là bất hợp pháp. Các đối tượng tranh chấp khác đều hài lòng với sự thay đổi trong chính sách này, nhưng không ai công khai lên tiếng.

Tuy nhiên, vấn đề không phải là Trung Quốc đang trắng trợn vi phạm luật pháp quốc tế – mà là họ cùng lúc tạo ra một vỏ bọc hợp pháp cho lập trường của mình.

Sự khôn ngoan thường tình là Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với “hầu hết các hòn đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận của chúng”. Các tuyên bố của họ “cực đoan” và bao quát hơn so với tuyên bố của bất kỳ đối thủ nào khác. 

Năm 2009, Dai Bingguo, khi đó là quan chức hàng đầu của Trung Quốc, lần đầu tiên gọi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, một thuật ngữ thường được sử dụng cho Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng. Mặc dù Trung Quốc không nói cụ thể về mức độ yêu sách của mình, nhưng họ sử dụng “đường chín đoạn”, ” vạch xuống, đi qua Việt Nam và Philippines, rồi hướng về Indonesia, bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông”, để phân định các yêu sách của mình.

Thoạt nhìn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ như đang dựa vào một lập luận lịch sử để củng cố các tuyên bố của họ – Trung Quốc đề cập đến sự giao tiếp của họ với Biển Đông từ thời Tây Hán. Do đó, câu chuyện về các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, khi người Trung Quốc đi thuyền trên Biển Đông và khám phá ra một số đặc điểm trên đất liền trong khu vực.

Các nhà nghiên cứu đã liệt kê tỉ mỉ tính chất đáng ngờ của lịch sử này. Ngoài ra, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) không cho các bên ký kết quyền đưa ra yêu sách dựa trên di sản lịch sử, và khái niệm “yêu sách lịch sử” thiếu cơ sở rõ ràng trong luật pháp quốc tế.

Nhưng thực ra, đây không phải là cách Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với 90% Biển Đông. Việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật pháp quốc tế phức tạp hơn một chút. Có bốn cấp độ được xây dựng dựa vào nhau.

Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố họ có các quyền tương tự các quốc gia quần đảo, những quốc gia này chủ yếu được tạo thành từ các hòn đảo. Một trong những lợi thế của quy chế quần đảo là vùng nước giữa các đảo được coi là nội thủy, giống như các con sông bên trong một quốc gia. Các quốc gia khác không có quyền quá cảnh các vùng biển này nếu không được phép. Quy chế quần đảo được LHQ thông qua và chỉ có 22 quốc gia tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc không phải là một trong số những quốc gia đó.

Trung Quốc không thể phủ nhận mình là một quốc gia lục địa. Tuy vậy, họ vẫn vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo Hoàng Sa và tuyên bố vùng biển giữa các hòn đảo là nội thủy. Bắc Kinh không công khai điều này đối với khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng phản ứng của họ trước các hoạt động của các nước khác cho thấy đó là cách diễn giải của họ. 

Các cuộc thảo luận của tôi với các chiến lược gia Trung Quốc cho thấy Trung Quốc có thể sẽ vạch rõ các đường cơ sở để tuyên bố chủ quyền vùng nội thủy giữa quần đảo Trường Sa, một khi họ có đủ khả năng quân sự để thực hiện. (Đây không phải là việc dễ dàng, vì vùng biển của Trường Sa có diện tích gấp 12 lần Hoàng Sa, bao gồm 160.000 đến 180.000 km vuông nước.)

Sau đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đường cơ sở Hoàng Sa, không phải từ các đảo riêng lẻ, và ở Trường Sa, từ nhiều địa điểm mà theo luật pháp quốc tế không được hưởng quyền này, chẳng hạn như các đảo nhân tạo. Ngoài ra, cách giải thích của Trung Quốc về lãnh hải là nhà nước có độc quyền đưa ra, áp dụng và thực thi luật pháp của mình trong không gian đó và nước ngoài không thể can thiệp.

Nhưng theo UNCLOS, tất cả các tàu, dân sự hay quân sự, có quyền thoải mái đi qua lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, vùng tiếp giáp được coi là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền giới hạn hàng hải hay tiến hành kiểm soát vì mục đích an ninh.

Cuối cùng, Trung Quốc tuyên bố 200 hải lý tính từ cuối lãnh hải là vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, nơi họ có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự.

Mỹ khẳng định rằng, tự do hàng hải của các tàu quân sự là một thông lệ được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được quy định trong luật pháp quốc tế. Nói khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ sự kiểm soát nào vì mục đích an ninh trong các vùng đặc quyền kinh tế.

Úc chia sẻ quan điểm này, nhưng không phải tất cả các nước đều chấp nhận cách hiểu này. Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Maldives, Oman và Việt Nam đồng ý với Trung Quốc rằng, tàu chiến không có quyền tự động vô tư đi lại trong lãnh hải của họ. 20 quốc gia đang phát triển khác (gồm cả Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam) nhấn mạnh rằng, các hoạt động quân sự của một quốc gia, như giám sát và do thám, trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác là vi phạm lợi ích an ninh của các quốc gia ven biển, và do đó không được bảo vệ theo quyền tự do hàng hải.

Nói cách khác, trong khi luật pháp quốc tế có thể ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ và Úc về hành vi pháp lý trong các vùng đặc quyền kinh tế, các nước cần phải nỗ lực hơn nữa để củng cố rộng hơn quy phạm này.

Chỉ tính riêng 3 vị trí nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền khoảng 80% Biển Đông. Sau đó, Trung Quốc sử dụng đường chín đoạn để nuốt trọn phần lãnh thổ còn lại bằng cách tuyên bố “vùng nước lịch sử”một lần nữa – tức là Trung Quốc đã kiểm soát môi trường biển này trong lịch sử -, một quan điểm vốn không có cơ sở trong luật pháp quốc tế.

Theo Trung Quốc

 Vùng nước giữa các đảo và các đối tượng địa lý được coi là vùng nội thủy; việc quá cảnh thương mại phải có sự cho phép của CHND Trung Hoa (đã tuyên bố rõ ràng về Hoàng Sa). 

 Lãnh hải 12 hải lý tính từ chu vi ngoài của các nhóm đảo; đảo nhân tạo và hầu hết các đối tượng địa lý đều có lãnh hải. 

 Có thể điều chỉnh hoạt động quân sự trong EEZ. 

 Yêu sách các quyền đối với “vùng nước lịch sử” trong đường chín đoạn; CHND Trung Hoa vẫn chưa làm rõ đầy đủ vị trí.           

Theo luật pháp quốc tế

– Chỉ rất ít quốc đảo được coi là quần đảo và có quyền coi các đảo như một nhóm; không áp dụng cho các đảo SCS (South China Sea islands) đang tranh chấp.

– Lãnh hải được đo từ từng đối tượng địa lý đã được công nhận hợp pháp; hầu hết các tính năng mà CHND Trung Hoa yêu sách không đáp ứng tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế.

– Chỉ có thể điều chỉnh hoạt động kinh tế ở đó. 

– “Vùng nước lịch sử” có ý nghĩa là không rõ ràng, không có cơ sở pháp lý, không có quyền.

Mỹ đã thực hiện các bước để thách thức cơ sở pháp lý sai lầm trong các tuyên bố của Trung Quốc. Đây là mục đích chính đằng sau các hoạt động tự do hàng hải hay còn gọi là FONOPS. Thông qua hành động, Mỹ cho thấy họ không chấp nhận quan điểm của Trung Quốc khi quốc gia này tuyên bố các khu vực không phải là vùng biển quốc tế mà là vùng nội thủy hoặc lãnh hải. Trong các trường hợp khác, Mỹ đưa ra tín hiệu không chấp nhận một khu vực nằm trong EEZ của Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc không có quyền điều chỉnh hoạt động quân sự ở đó.

Nhưng việc chống phá các tuyên bố pháp lý sai lầm của Trung Quốc đòi hỏi nhiều hơn các hoạt động quân sự và những tuyên bố gay gắt. Năm 2016, Tòa án La Haye đã phán quyết rằng, yêu sách về các quyền lịch sử ở Biển Đông của Trung Quốc thiếu cơ sở pháp lý, các hành động của Trung Quốc trong khu vực vi phạm quyền của Philippines và các đối tượng ở Trường Sa không được hưởng các đặc quyền kinh tế hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, việc Washington liên tục từ chối phê chuẩn UNCLOS khiến hiệu quả chung trong việc đẩy lùi Bắc Kinh bằng công cụ pháp lý của chính phủ bị suy yếu. Ngoài ra, Washington đã lãng phí cơ hội giúp Philippines thực thi phán quyết năm 2016 của Tòa án Quốc tế theo hướng có lợi cho mình, khiến việc thách thức Bắc Kinh trên cơ sở pháp lý đối với các nguyên đơn khác càng kém sức hấp dẫn.

Mỹ không nên phạm sai lầm tương tự hai lần. Họ nên hỗ trợ các nguyên đơn có thể đang muốn khởi kiện Trung Quốc (Việt Nam hiện đang xem xét việc này). Sau đó, khi tòa án đưa ra phán quyết mới chống lại Trung Quốc, Mỹ nên dẫn đầu trách nhiệm thực thi phán quyết.

Trung Quốc đang sử dụng tất cả các công cụ của chính phủ để giành quyền kiểm soát tuyến đường thủy chiến lược quan trọng này. Mỹ và các đồng minh cũng nên làm như vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét