Cuộc cách mạng thất bại tại Hồng Kông, bài học nào cho Việt Nam?
Jackhammer Nguyễn
26-8-2020
Cuộc cách mạng không thể thành công
Đối với tôi, vụ bắt cô Châu Đình (Agnes Chow) ngày 10/8/2020, là sự kiện đóng lại trang sử “cuộc cách mạng không thể được” của Hồng Kông, dù sau đó đến tận cuối tháng 8/2020 vẫn còn liên tục nhiều người bị bắt, trước cô Châu, anh Hoàng Chí Phong, nhà báo Jimmy Lai cũng bị bắt, và bản thân Châu Đình cũng từng bị bắt vào tháng 9/2019.
Vì cô Châu Đình là đại diện cho triệu người trẻ tuổi của Hồng Kông, xuống đường định tiến hành cuộc cách mạng thay đổi tận gốc chính trị Hồng Kông, và vụ bắt bớ ngày 10/8 được thực hiện dưới Luật an ninh mới của Bắc Kinh, mà sự ra đời của nó được đánh giá là kết thúc những quyền tự do cuối cùng của người dân Hồng Kông.
Cuộc cách mạng đã thất bại. Nhưng trước đó người ta dự đoán nó không thể thành công, trong đó có người viết bài này, dựa trên phân tích về kinh tế của lãnh thổ Hồng Kông, cũng như thái độ tự tin của Bắc Kinh khi xử cuộc biểu tình, theo kiểu nhà cầm quyền các chế độ dân chủ phương Tây đối phó với các cuộc biểu tình. Điều trớ trêu là chế độ Bắc Kinh không hề là một nền dân chủ.
Thật ra, cuộc xuống đường của sinh viên học sinh Hồng Kông đã đạt được sự nhượng bộ từ Bắc Kinh khi Trung Nam Hải rút lui dự luật dẫn độ, nguyên nhân trực tiếp làm bùng phát cuộc cách mạng. Đáng lẽ các lãnh tụ thanh niên, các nhà lập pháp độc lập nên dừng lại ở đó, nhưng họ lại tiếp tục đi xa hơn khi đòi hủy bỏ điều kiện bầu cử đặc khu trưởng là cần có sự ủng hộ của Bắc Kinh. Và còn đi xa hơn nữa là đòi … độc lập.
Bắc Kinh không chấp nhận như thế, và cuộc xuống đường càng lâu, càng tăng bạo lực, thì sự ủng hộ của dân chúng Hồng Kông cho các bạn trẻ càng giảm. Huống hồ gì nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là kinh tế suy sụp của Hồng Kông, chứ chưa hẳn hoàn toàn là các giá trị và định chế dân chủ mà các bạn trẻ và Châu Đình giương cao.
Điều quan trọng nữa trong cái cách mà những nhà cách mạng làm áp lực lên Bắc Kinh là một suy nghĩ sai lầm của họ về vị thế của Hồng Kông trong nền kinh tế Hoa Lục và toàn cầu. Họ vẫn cho rằng Hồng Kông là cái rốn tài chính của châu Á, là cái yết hầu sống còn của nền kinh tế Hoa Lục. Phân tích cho thấy từ khi Hoa lục cải tổ kinh tế, Hồng Kông bị trao trả từ tay người Anh, các trung tâm kinh tế ven biển Hoa Đông như Thượng Hải, Chu Hải, Thẩm Quyến tăng trưởng nhanh chóng, chia hết miếng bánh của Hồng Kông.
Áp lực quốc tế lên Bắc Kinh cũng không có giá trị gì hết vì vai trò kinh tế của Hoa lục quá lớn đối với các ngọn đèn dân chủ như Tây Âu, Úc, Hoa Kỳ, và nhất là Hoa Kỳ dưới thời Donald Trump thì càng ít hy vọng. Trump không mảy may quan tâm tới Hồng Kông trong cái “deal” của ông ta với Trung Nam Hải. Thành ra khi thoáng thấy khẩu hiệu khẩn cầu Donald Trump và Hoa Kỳ xuất hiện trên đường phố Hồng Kông, thì quả là điềm báo cho cuộc thất bại này.
Các nhà cách mạng trẻ tuổi hy vọng sự suy sụp kinh tế của Hồng Kông làm Hoa lục sợ hãi, hay là áp lực quốc tế từ phương Tây sẽ làm Bắc Kinh nhượng bộ. Cả hai điều đó đều không xảy ra. Chẳng những thế, bộ luật an ninh mới lại làm thêm một cái tròng lên những người yêu dân chủ Hồng Kông.
Bài học gì cho Việt Nam?
Có nhiều người Việt ngưỡng mộ cuộc cách mạng Hồng Kông, từ đó xem khinh người Việt Nam đã không có những hành động cách mạng tương tự. Tôi không cho là như thế, khác với người Việt, nhiều thế hệ Hồng Kông lớn lên dưới thể chế dân chủ. Có bao nhiêu người Việt Nam được hưởng một xã hội và giáo dục như Hồng Kông?
Tuy vậy, theo tôi ta cũng rút ra được mấy bài học sau đây cho phong trào dân chủ hóa Việt Nam, từ cái thành cái bại của Hồng Kông.
Các bạn trẻ Hồng Kông đã sử dụng được mạng xã hội, biến những tranh cãi biện luận trên mạng thành hoạt động có thật trên đường phố. Những hoạt động này dù sao cũng đã đem lại cho họ những thắng lợi ban đầu.
Những nhà cách mạng Hồng Kông có được những người muốn thay đổi từ bên trong hệ thống, những nhà lập pháp theo khuynh hướng dân chủ. Những người này khởi đầu không nhỏ cho phong trào diễn ra ngoài đường phố.
Sự thành lập công khai tổ chức Demosisto cũng ít nhất tập trung được sức mạnh một cách có tổ chức. Ủng hộ phong trào dân chủ Hồng Kông còn có những kênh truyền thông độc lập và có uy tín.
Đó là những cái thành công, dù rằng nó chỉ trong tày gang, nhanh chóng bị sự thất bại sau đó xóa sạch.
Tại Việt Nam, mạng xã hội đang trở thành một nơi cãi nhau vô bổ, không hề biến được thành sức mạnh có thật ngoài đường phố, trên đồng ruộng, hay trong nhà máy.
Việt Nam cũng không có được “tay trong” như những nhà lập pháp dân chủ Hồng Kông, bộ máy nhà nước hoàn toàn do đảng Cộng sản kiểm soát.
Các tổ chức không do đảng Cộng sản kiểm soát hiện nay là Giáo hội Công Giáo, một số đảng phái chính trị bí mật, và các tổ chức nghiệp đoàn tự do cũng … bí mật. Nhưng Giáo hội Công Giáo không thể làm gì được trong một quốc gia mà họ chỉ là thiểu số. Các đảng phái chính trị và nghiệp đoàn bị đàn áp nặng nề, nhưng rất ít được người Việt trong nước biết đến.
Các tổ chức hải ngoại của người Việt thì ồn ào, nhiều màu sắc và không giúp ích gì được nhiều cho dân chủ hóa trong nước như lẽ ra phải có. Các cơ quan ngôn luận của người Việt hải ngoại lại đang bị làm nhiễu bởi mạng xã hội, loan tin thất thiệt, thuyết âm mưu để câu khách là nhiều, chỉ làm lợi cho uy tín của truyền thông cộng sản trong nước.
Mà không chỉ có các kênh YouTube ăn tiền quảng cáo, các kênh truyền thông mang tính chính thống cũng hay áp đặt tiêu chuẩn kép trên những sự việc diễn ra ở Việt Nam. Điển hình trong vụ này là vụ án Trương Duy Nhất đang diễn ra. Đã có rất nhiều cơ sở để tin rằng ông Nhất liên quan đến tham nhũng và đấu đá phe phái tại Việt Nam, nhưng đối với nhiều kênh truyền thông hải ngoại của người Việt, ông ta là một người anh hùng. Điều đó là gì nếu không phải là điều làm mất lòng tin của công chúng trong nước?
Điều quan trọng nhất, theo tôi, rút ra từ bài học Hồng Kông là đánh giá đúng vị trị của mình và của đối phương.
Các nhà hoạt động dân chủ người Việt trong và ngoài nước có khuynh hướng xem thường bản lãnh của các viên chức cộng sản Việt Nam, cứ suy đoán theo kiểu mơ ước là nền kinh tế của họ sắp sụp đổ tới nơi rồi. Điều đó không đúng.
Đứng trước một đối thủ dày dạn kinh nghiệm gần 100 năm, rất có tổ chức, những người Việt yêu dân chủ không có tổ chức nào hết, thậm chí đôi khi cái tên đấu tranh dân chủ chỉ là cái vỏ. Một trường hợp rất nhiều người biết đến là một người được các tổ chức nhân quyền bảo trợ đi dự hội nghị tại Pháp, chỉ có mặt tại hội nghị đúng một buổi rồi sau đó làm giấy tờ để cư trú tại Pháp. Người này không có một quá khứ đấu tranh dân chủ gì cả.
Dù không có được những gì tôi vừa liệt kê, nhưng những năm qua cũng chứng kiến những cuộc biểu tình lớn tại Việt Nam, như cuộc biểu tình hàng trăm ngàn người vào hai ngày 10 và 11/6/2018 chống luật đặc khu và an ninh mạng, hay cuộc biểu tình ngày 1/5/2016 chống ô nhiễm ở Formosa Hà Tĩnh.
Các cuộc biểu tình này ít nhiều có một nguyên nhân chung giúp nhiều người Việt đoàn kết lại, đó là tâm lý bực tức, căm thù kẻ xâm lược Trung Quốc. Nay có vẻ như nhà nước Việt Nam với khuynh hướng gần phương Tây hơn, bắt đầu mạnh miệng hơn về đối ngoại, chống lại Bắc Kinh. Điều đó làm cho các chất keo dính kết “những người dân chủ” Việt Nam không còn nữa.
Tuy nhiên với lăng kính lạc quan, tôi cho rằng xã hội Việt Nam vẫn còn rộng mở nhiều khả năng cho dân chủ hóa, và dân chủ hóa phải được hiểu theo nghĩa rộng và tiệm tiến, chứ không phải là đơn thuần thay đổi một cái tên, hay thành lập tổ chức này tổ chức nọ.
Mà dân chủ hóa là gì nếu không phải là cải thiện những điều cơ bản nhất về dân sinh như đất đai, môi trường, lương bổng? Những hoạt động dân chủ hóa Việt Nam phải bắt đầu lại bằng những hoạt động dân sự và dân sinh như thế. Bên cạnh đó, sự “tự diễn biến” của những người cộng sản Việt Nam cũng quan trọng không kém, tôi nghĩ vẫn còn rất nhiều người sẵn sàng làm “tay trong” cho dân chủ hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét