Biển Đông dậy sóng: Ngoài Công hàm 1958, Trung Quốc còn có sách giáo khoa địa lý và chứng cứ khác (Phần 1)
24-4-2020
Biển Đông đang dậy sóng chủ quyền. Chưa bao giờ chúng ta “nhìn rõ” chủ quyền biển đảo bị mất như lúc này, cũng chưa bao giờ cơ hội tranh đấu bằng lý lẽ đòi biển đảo lớn như lúc này.
Trung Quốc ngang ngược thì ai cũng biết. Nhưng nhiều thông tin từ những nơi đáng ngờ trong nước làm cho nhiều người ít quan tâm về biển đảo khó biết rõ vị trí pháp lý quốc tế của Hoàng Sa, Trường Sa trên mặt trận công pháp quốc tế.
Trên tinh thần diễn đạt đơn giản dễ hiểu các điều luật về biển, chúng tôi viết loạt bài này nhằm xin trình bày ngắn gọn một số điểm cơ bản trong vị thế pháp lý của biển đảo Việt Nam. Chúng tôi không trình bày khoa học pháp lý mà trình bày diễn giải để dành cho người ít có điều kiện đọc, họ nhanh chóng hiểu rõ. Chúng tôi rất thành tâm mong được các bậc thức giả chỉ giáo thêm cho.
***
Công hàm do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14.9.1958 mấy hôm nay trở thành cùm từ “hot” trên mạng, bởi Nhà nước Cộng hòa dân chủ Trung Hoa (TQ) lấy làm căn cứ khi họ trình Công hàm CML 42/2020 lên Liên Hợp Quốc để khẳng định chủ quyền biển đảo của họ.
Người Việt chúng ta hầu hết đều biết sự ngang ngược của TQ đối với Biển Đông. Họ gom hết cả khu vực rộng lớn gồm Hải phận quốc tế, Thềm lục địa của Việt Nam và nhiều nước trong Asean để tuyên bố đó là ao nhà của họ (vùng nội thủy).
Căn cứ mà TQ đưa ra để tranh giành biển đảo với Việt Nam chúng ta, không chỉ có Công hàm 1958 của Cố Thủ tướng VN Phạm Văn Đồng. Họ còn đưa ra tài liệu Sách giáo khoa địa lý lớp 9 của Việt Nam phát hành năm 1974 và các chứng cứ khác.
Sách giáo khoa địa lý lớp 9 của Việt Nam phát hành năm 1974, trong phần bài viết giới thiệu địa lý Cộng hòa dân chủ Trung Hoa, mục “Vị trí địa lý, biển và bờ biển”, đã viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn… làm thành một bức ‘trường thành’ bảo vệ lục địa Trung quốc”.
Đọc đoạn văn trên, rõ ràng ai cũng nhận ra nhà nước VN đã có ý chí ở mức độ “khoa giáo” cho học sinh các thể hệ rằng Hoàng Sa và Trường Sa (Nam Sa và Tây Sa theo cách gọi của TQ), là đảo của TQ.
Đây là chứng cứ nguy hại cho VN. Nó mang sự thừa nhận trên bình diện khoa giáo giảng dạy trong nhà trường. Một chứng cứ có giá trị không nhỏ khi kèm với Công hàm 1958.
Ngoài ra còn có bản đồ do Cục đo đạc bản đồ của Phủ Thủ tướng năm 1972 chú thích hai quần đảo là Nam Sa và Tây Sa (thay vì chú thích Hoàng Sa và Trường Sa), Tuyên bố ngoại giao của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm ngày 15.6.1956.
TQ không dại gì mà không đưa ra các chứng cứ này kèm theo Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để làm bằng chứng dành chủ quyền biển đảo. Phải nói rằng, họ vớ được chứng cứ là “sự ngây ngô” của nhà nước Việt Nam như vớ được vàng.
Chúng ta đặt ra như thế là không nhằm nói rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của TQ. Mà chỉ nhằm xác định rõ “địa vị công pháp” của VN trong việc xác định chứng lý về chủ quyền biển đảo.
Chúng ta đặt ngược lại nếu chúng ta có được bất kỳ một tài liệu của TQ nêu rõ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, rõ ràng chúng ta sẽ “chụp ngay” lấy nó làm bằng chứng vững chắc khẳng định chủ quyền.
Tuy vậy, nếu thực tâm đấu tranh đòi chủ quyền biển đảo thì Chính phủ VN cũng có thể tiến hành những tiến trình pháp lý nhằm loại bỏ các chứng cứ này.
Nhưng cho đến nay, chưa có bước pháp lý để loại bỏ, tức không khác gì chúng ta đang thừa nhận nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét