Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Trao đổi “Tiên học lễ hậu học văn” - Nói thêm về điều ông Thêm không dám nói…

 

Trao đổi “Tiên học lễ hậu học văn” - Nói thêm về điều ông Thêm không dám nói…

Hiếu Chân / Người Việt

November 26, 2021

Ông Thêm trong đề bài là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Ngọc Thêm, làm việc tại Trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn ở Sài Gòn. Mấy bữa nay, giới sĩ phu trong và ngoài nước sôi nổi bàn luận về đề nghị của ông Thêm bãi bỏ khẩu hiệu “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” trong nhà trường Việt Nam. Người ủng hộ ông có nhiều, nhưng người phản đối ông cũng không ít, thậm chí có người miệt thị ông bằng những từ ngữ nặng nề trên mạng xã hội, đó là điều không hay.

Ông Trần Ngọc Thêm đòi bãi bỏ khẩu hiệu “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” trong nhà trường Việt Nam. (Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP via Getty Images)

Theo truyền thông trong nước, ông Thêm đưa ra đề nghị nói trên trong bài phát biểu nhan đề “Tạo triết lý giáo dục và văn hóa giáo dục để xây dựng một xã hội phát triển” tại cuộc hội thảo “Xây dựng văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo,” do Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục của Quốc Hội Cộng Sản Việt Nam tổ chức ngày 21 Tháng Mười Một vừa qua. Nhưng thực tình, đọc hết bài phát biểu dài gần 2,000 chữ của ông Thêm đăng lại trên báo Văn Hóa tôi không thấy ông nói tới việc bãi bỏ khẩu hiệu “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn,” còn ông có “nói vo” (tức là ứng khẩu, không có trong văn bản) trên diễn đàn của hội thảo hay không thì tôi chưa biết. Đề nghị bãi bỏ này chỉ được ông nói tới trong các bài trả lời phỏng vấn báo chí sau hội thảo, như một sự bổ sung cho bài phát biểu đã đọc. Dường như dư luận chỉ xoáy vào đề nghị gây tranh cãi này là từ các phát biểu trên báo của ông Thêm.
Ông Thêm đã nói gì? Lược đi những từ ngữ rối rắm, những thuật ngữ mơ hồ và những lời rào đón che chắn của ông, nội dung bài phát biểu có thể tóm tắt trong một ý chính: “Để có xã hội phát triển thì cần phải có con người sáng tạo. Mà để có con người sáng tạo thì trước hết phải có con người chủ động và con người trung thực.”

Ý kiến đó, theo tôi, chẳng có gì sai và cũng chẳng hề mới. Ông Thêm đã vận dụng cái sự thật hiển nhiên đó vào thực tiễn giáo dục ở Việt Nam để chỉ ra rằng nền giáo dục đó vận hành ngược quy luật, kìm hãm sự sáng tạo, sinh ra bốn căn bệnh: “Bệnh thành tích,” “bệnh phong trào,” “bệnh đối phó” và “bệnh giả dối,” cùng vô số những triệu chứng của chúng như cách dạy học thuộc lòng, làm bài theo văn mẫu, chấm thi theo đáp án có sẵn, học để đối phó với thi cử, thi cử cốt để đỗ lấy bằng…

Ông tìm thấy nguyên nhân gây các căn bệnh kể trên trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt, mà ông cho là “thiên về âm tính,” giống như các nước Đông Nam Á, sản sinh từ nền kinh tế nông nghiệp, ưa ổn định và lấy sự yên ổn làm hạnh phúc. “Bản chất âm tính của văn hóa và người thừa hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động, khép kín, bảo thủ và cùng với nó là thói dựa dẫm, ỷ lại,” ông Thêm nhận xét.

Từ đó, ông cho rằng muốn có con người sáng tạo thì phải xây dựng một môi trường khuyến khích người học thể hiện tính chủ động, sự tự tin, phải rèn luyện tư duy phản biện, người học phải có bản lĩnh để nghĩ khác, nói khác, cần coi trọng bản lĩnh, đề cao dân chủ trong giáo dục. “Tư duy phản biện, khai phóng đến lượt mình là điều kiện cần cho sự sáng tạo,” ông Thêm nói.

Nếu dừng lại ở đó thì bài phát biểu của ông Thêm không có gì mới, không hoàn toàn đúng nhưng cũng không sai nhiều lắm; trong môi trường Việt Nam nói lên những điều đó trước bàn dân thiên hạ đôi khi được coi là một hành vi can đảm. Thế nhưng công luận phản ứng rất sôi nổi khi ông Thêm tiếp tục đẩy vấn đề đi chệch hướng bằng việc quy những căn bệnh trì trệ của giáo dục, và cả xã hội Việt Nam vào chữ “Lễ” để yêu cầu xóa bỏ nó trong nhà trường.

Ông cho rằng, “Tiên Học Lễ” đề cao sự phục tùng, do đó là một lực cản đối với tư duy sáng tạo. “Khẩu hiệu ‘Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn’ là sản phẩm của nền giáo dục Nho Giáo, phục vụ cho mục tiêu đào tạo người thừa hành, coi việc đòi hỏi người dưới phải phục tùng và giữ ‘lễ’ với người trên là yêu cầu số 1. Một nguồn nhân lực như vậy giỏi lắm chỉ có thể giữ cho xã hội ổn định, chứ không thể giúp xã hội phát triển,” ông nói với báo Tuổi Trẻ.

“‘Tiên Học Lễ’ rồi thì con người sẽ trở nên thụ động, sẽ không còn tư duy phản biện nữa. ‘Tiên Học Lễ’ đòi hỏi quan hệ một chiều, người dưới tôn trọng người trên. Còn sức sáng tạo và sự phản biện tồn tại trong quan hệ hai chiều, người dưới và người trên cần có sự tôn trọng lẫn nhau,” ông nói thêm.

Cách hiểu của ông Thêm về chữ “Lễ” trong câu cách ngôn “Tiên Học Lễ…” rõ ràng có vấn đề. Chữ “Lễ” ở Việt Nam không đồng nhất với chữ “Lễ” trong “ngũ thường” của Khổng Giáo Trung Hoa (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) mà biểu thị cách đối nhân xử thế của con người, không phải là sự phục tùng thụ động của người thừa hành đối với cấp trên. “Lễ” trong câu “Tiên Học Lễ” nên hiểu là “lễ phép,” là những phép tắc giao tiếp với người khác để tỏ lòng kính trọng.

Trong nhà trường miền Nam Việt Nam trước đây, câu cách ngôn “Tiên Học Lễ…” được treo cao bên trên bảng đen mỗi lớp học là để học trò luôn nhớ phải cư xử với người khác theo lễ phép. Đi thưa về trình là lễ. Gặp đám tang phải đứng lại ngả mũ chào là lễ. Thương người khốn khó là lễ… Nói như Giáo Sư Nghiêm Toản mà mới đây một học trò của ông đã nhắc lại: “Chúng ta ngày nay đã theo tân học, chữ Lễ cũng nên hiểu theo thời đại mới. Xã hội đã dân chủ, xã hội không thể không có Lễ, nhưng là Lễ giữa những người bình đẳng, tự do.” Chữ “Lễ” trong một quan niệm như vậy không phải là sản phẩm của Nho Giáo, không hề là lực cản cho sự sáng tạo.

Quy những bệnh tật của xã hội, của nền văn hóa giáo dục hiện nay vào “truyền thống văn hóa dân tộc” là điều không đúng. Trên đường phát triển, xã hội nào cũng đi từ nông nghiệp sang công nghiệp hiện đại, nhưng không thể lấy quá khứ tăm tối để biện minh cho những sai lầm tệ lậu của ngày nay. Xã hội Việt Nam thời các vua chúa có trì trệ, có khép kín, có bảo thủ và nhiều “hủ tục” khác, nhưng đó cũng là nơi vun trồng lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái và ý chí tiến thủ của con người. Rồi khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Việt đã dần dần hội nhập với văn hóa mới, bãi bỏ dần những thứ lạc hậu, cổ hủ, cắt cái búi tó trên đầu, thay áo dài đen bằng áo sơ mi quần tây, áo váy và “đoạn tuyệt” – tên một cuốn tiểu thuyết năm 1934 của Nhất Linh – với những tàn dư của thời đại trước. Quá trình hội nhập đó kéo dài đã hơn thế kỷ, đã làm thay đổi căn bản nếp sống, nếp nghĩ của người Việt.

Thế tại sao xã hội và giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn lâm nhiều bệnh nan y như vậy? Giáo Sư Thêm bắt mạch mà không dám chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh, cho nên ra toa điều trị trật lất. Những thảm nạn của xã hội và giáo dục Việt Nam có gốc gác từ chủ nghĩa Cộng Sản – một thứ ý thức hệ ngoại lai, sai lầm và không phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc – được du nhập vào Việt Nam, giành được quyền cai trị và trở thành hệ tư tưởng duy nhất mà cả xã hội bị buộc phải đi theo.

Đặc điểm của mọi thể chế Cộng Sản là không dung thứ mọi tư tưởng khác, mà không tôn trọng sự khác biệt thì không có sáng tạo. Khi “phản biện” bị coi là “phản động,” người phản biện bị chụp mũ “thế lực thù địch,” bị bắt bớ, tù đày, sinh kế bị phong tỏa, gia đình bị quấy nhiễu… thì còn ai phản biện? Khi trí thức bị giới chính trị gia cầm quyền trong đảng nghi ngờ và khinh bỉ thì ai sẽ là người sáng tạo? “Trí thức là cục phân, nhưng còn kém cục phân vì không có ích gì cả,” Mao Trạch Đông, “lãnh tụ vĩ đại” của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đã tuyên bố như vậy tại hội nghị Diên An năm 1943. Không có trí thức thì trông mong gì ở sức sáng tạo dưới chế độ xã hội chủ nghĩa?

Người dân Việt Nam, kể cả những người được coi là hiểu nhiều biết rộng, vẫn giữ thái độ “im lặng là vàng” để yên thân mà không “phản biện,” không dám bộc lộ những suy nghĩ thực của họ trước hiện tình đất nước không phải vì họ tuân theo châm ngôn “Tiên Học Lễ” – phục tùng người trên như cách hiểu của ông Thêm – mà vì sự đàn áp của cả một guồng máy cai trị, trong đó tự do không được bảo đảm, ngôn luận không được tự do, tư tưởng cũng không được tự do. Khi công an có thể bắt giam, tòa án có thể kết tội ngay cả những ý nghĩ trong đầu người dân hay những lời bình luận thoáng qua của họ trên mạng xã hội thì làm sao có cái gọi là “tư duy phản biện” và “sáng tạo.” Kêu gọi “người học phải có bản lĩnh để nghĩ khác, nói khác, đề cao dân chủ trong giáo dục…” nghe thì hay đấy, nhưng trong môi trường như vậy, thì người kêu gọi hoặc quay lưng với thực tế và suy nghĩ viển vông, hoặc cố tình lừa mị người nghe.

Hãy xem bốn căn bệnh của giáo dục Việt Nam mà ông Thêm chẩn đoán trong bài phát biểu của ông.

Các căn bệnh “bệnh thành tích,” “bệnh phong trào” mà ông Thêm đề cập là những thứ riêng có của xã hội Cộng Sản, khó mà tìm thấy ở các nước văn minh. Trẻ em Việt Nam ngay từ tuổi mẫu giáo đã được dạy phải “thi đua lập thành tích” để cuối tuần được thưởng phiếu “Bé Ngoan,” lớn lên thì “người người thi đua, nhà nhà thi đua” dù càng thi đua, càng lập thành tích thì sản xuất càng lụn bại, xã hội càng bế tắc.

Ông Trần Ngọc Thêm. (Hình: Tuổi Trẻ)

Bệnh giả dối, bệnh đối phó thì không chỉ xã hội Cộng Sản mới có nhưng chỉ trong xã hội Cộng Sản nó mới biến thành nan y, nhiễm vào thường dân, cán bộ đảng viên cho đến quan chức cấp cao nhất; chức vụ càng cao, quyền lực càng lớn thì càng gian manh dối trá. Hôm trước trong mục này chúng tôi có bình về chuyện Tướng Tô Lâm, ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, bộ trưởng Công An, ăn thịt bò dát vàng hàng ngàn đô la một phần ở London, Anh, sau khi viếng mộ “tri ân” ông tổ cách mạng vô sản Karl Marx như một biểu hiện về sự gian trá tận cùng của cán bộ Cộng Sản cao cấp. Mà đó cũng chỉ là một trong vô số những trường hợp đang xảy ra hằng ngày hằng giờ của các quan chức Việt Nam.

Nói vắn tắt, Cộng Sản là kẻ tiêu diệt sáng tạo. “Để có con người sáng tạo, con người chủ động và con người trung thực” nhằm cứu vớt nền giáo dục, phát triển xã hội như mong muốn trong bài phát biểu của ông Thêm thì điều kiện cần và đủ là giải thể chế độ Cộng Sản, đưa đất nước vào con đường dân chủ, tự do như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới. Trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển của đất nước và xã hội Việt Nam chính là đảng Cộng Sản chứ không phải cái khẩu hiệu “Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn,” và do đó cái cần phải bãi bỏ càng sớm càng tốt là chế độ độc tài toàn trị mà đảng này áp đặt lên toàn bộ đất nước chứ không chỉ bãi bỏ câu khẩu hiệu vốn dĩ đã bị xếp xó và thay bằng “5 điều bác Hồ dạy” từ sau ngày miền Nam thất thủ.

H.C.

Nguồn: nguoi-viet.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét