Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Tương lai của Đảng Cộng sản và Dân tộc Việt (Phần 2)

 

Tương lai của Đảng Cộng sản và Dân tộc Việt (Phần 2)

Nguyễn Đình Cống

18-1-2023

Tiếp theo phần 1

III. Một số đề xuất của tác giả

Xin trở lại với đầu đề bài này: Tương Lai của Đảng Cộng Sản và Dân Tộc Việt.

Tôi tự nhận là một trí thức của Dân, thuộc bên B, một người phản biện, từng vạch ra những sai lầm từ gốc của CNML và một vài chủ trương đường lối của Đảng CSVN. Khi tôi tách Đảng khỏi Dân tộc và vạch ra mâu thuẫn giữa hai bên, chắc sẽ bị nhiều người bên A phản đối và xỉ vả vì họ đã quen với việc đặt Đảng trùm lên Dân tộc, rằng mọi thứ trên đất nước này đều là của Đảng. Họ cho rằng câu hỏi Việt Nam sẽ phát triển theo con đường nào là quá ngớ ngẩn, vì đã có Nghị quyết của đại hội 13. Bên A cho rằng đó là con đường duy nhất đúng, nhưng tôi lại cho rằng có những nhầm lẫn.

Nghị quyết Đại hội 13 mới đọc qua thì thấy đúng, thấy hay, nhưng đọc kỹ với tinh thần phản biện mới phát hiện ra những bất cập và ngụy biện. Vừa đưa nó vào cuộc sống mới được hơn một năm mà xã hội đã gặp biết bao nhiêu bê bối, thảm họa, như Lê Thân đã viết ra một phần trong bài “Việt Nam chọn con đường nào”. Đành rằng không phải Nghị quyết Đại hội 13 trực tiếp gây ra những thảm họa đó, mà chỉ chứng tỏ NQ không có tác dụng gì trong việc phòng ngừa, ngăn chặn thảm họa và suy sụp.

Đầu tiên là việc đánh giá thực trạng của đất nước sau hơn ba chục năm đổi mới. Tuy rằng đề ra phương châm, khẩu hiệu “nhìn thẳng vào sự thật”, nhưng hình như chỉ nhìn bằng một con mắt chột, nên chỉ thấy được những nơi có ánh sáng phát ra, nghĩa là chỉ thấy một phần sự thật, mà một phần sự thật nhiều khi là dối trá, nếu vô tình dùng nó. Còn nếu cố ý chọn nó để dùng thì chắc chắn là dối trá.

Cách viết của NQ về các lĩnh vực thường theo mẫu như sau: Về lĩnh vực này chúng ta đã đạt các thành tích A, B, C, D, tuy vậy cũng còn phạm phải vài thiếu sót U, V, X, Y. Nguyên nhân của thành tích là sự sáng suốt của lãnh đạo, nguyên nhân của thiếu sót là H, K, L, mà chỉ là bên ngoài, dễ thấy, còn nguyên nhân cơ bản thì cố tình che giấu hoặc không tìm thấy.

Thực trạng đã không được đánh giá đúng, lại dựa vào nó mà vạch đường lối thì chủ yếu là lạc đường. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội 13 thì trước mắt và cho đến năm 2050, Việt Nam vẫn tập trung phát triển kinh tế. Liệu có phát triển được nền kinh tế tri thức không, hay chỉ tiếp tục con đường hiện nay (gia công, bán sức lao động, phụ thuộc vào FDI, tàn phá môi trường…). Nếu vẫn như thế, thì theo tôi, đã phạm sai lầm về đường lối. Tại sao lại như vậy?

Mỗi người có cuộc sống vật chất liên quan đến kinh tế và cuộc sống tinh thần liên quan đến bản chất văn hóa. Bản chất này là hồn cốt của dân tộc, khác hoàn toàn với các hoạt động do Bộ Văn hóa quản lý.

Khi người ta rơi vào tình trạng đói khổ thì ưu tiên phát triển kinh tế là đúng và cấp thiết, nhưng khi đã tạm đủ ăn, đủ mặc, thì đồng thời với kinh tế cần xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp, và đến khi xã hội bước vào phát triển thì cần đề cao đời sống văn hóa và tinh thần.

Đời sống văn hóa được dẫn dắt bởi tầng lớp tinh hoa của xã hội. Một xã hội sẽ gần với bán khai khi thiếu vắng tầng lớp tinh hoa, thế mà ở VN tầng lớp đó đang lụi tàn, mà nguyên nhân chủ yếu là lãnh đạo đất nước mắc vào âm mưu thâm độc của Trung Cộng trong việc trừ bỏ tinh hoa của dân tộc Việt để dễ bề biến người Việt thành tay sai, dễ bề bành trướng, xâm lược. Thủ đoạn chính trong việc này là gán cho những phần tử tinh hoa tội “lợi dụng tự do dân chủ” chống đối chính quyền, rồi giam cầm họ, trừ khử họ.

Mác đã sai khi tôn sùng học thuyết duy vật, đề lên quá cao vai trò của vật chất, từ đó kéo theo việc tranh đoạt quyền lợi vất chất, dùng chỉ tiêu kinh tế để đánh giá thứ hạng của đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng mơ ước, đến năm 2045, Việt Nam sẽ đạt được mức này mức kia thì cũng đều thuộc cuộc sống vất chất.

Để tỏ ra cũng quan tâm đến văn hóa, vào tháng 11 năm 2021, Đảng tổ chức Hội nghị Diên Hồng về văn hóa khá rầm rộ, nhưng nhiều người, kể cả lãnh đạo cấp cao đã nhầm mà trộn lẫn Bản chất văn hóa là hồn cốt của dân tộc với các hoạt động do Bộ Văn hóa quản lý như xuất bản, biểu diễn, triển lãm, hội hè v.v… Trong lúc làm các hoạt động văn hóa thì lại để cho bản chất văn hóa bị thoái hóa, đời sống tinh thần bị đẩy vào các tai họa, đạo đức bị xuống cấp. Sau một hồi trống rền vang ở Hội nghị Diên Hồng về văn hóa, đã xảy ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Bản chất văn hóa bị nhấn chìm, bị quên lãng trong các hoạt động kinh tế thăng trầm và náo loạn, trong những lo toan đến thắt ruột về việc làm trong sạch tổ chức và hệ thống chính trị, về việc củng cố độc quyền.

Quan trọng nhất trong bản chất văn hóa nằm trong tình yêu thương, tôn trọng, con người, là lòng tin vào con người, là bảo vệ nhân quyền, mà quan trọng nhất là quyền tự do, bình đẳng, là chống áp đặt, là lòng bao dung và trắc ẩn. Những điều này đã bị cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản làm cho xộc xệch, méo mó, cho rằng đó là văn hóa tư sản cần loại bỏ để xây dựng nền văn hóa cộng sản với việc vạch rõ ranh giới giai cấp, khắc sâu hận thù giữa những người không cùng ý thức hệ, là trấn áp xu hướng đòi nhân quyền, là tiêu diệt những người bất đồng chính kiến, là sự thống nhất tư tưởng để bắt mọi người phải suy nghĩ theo một người v.v… và gọi đó là đạo đức cách mạng.

Một vài nhà tư tưởng cộng sản cực đoan lại đem đạo đức cách mạng đối lại với đạo đức nhân bản, đem văn hóa vô sản do công nông thực thi đối lại với văn hóa truyền thống do tầng lớp tinh hoa (hoặc thượng lưu) chủ trương. Quốc tế ca có lời rằng: Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành.

Văn hóa vô sản là: “Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu/ Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp” (thơ Tố Hữu), là “Tước đoạt của kẻ tước đoạt” và nhiều cách nghĩ, cách làm trái Đạo Trời khác. Nó được thể hiện rất rõ trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo công thương nghiệp tư nhân, trong hợp tác xã nông nghiệp và Luật Đất Đai, trong một nền giáo dục đào tạo con người thành công cụ, trong xã hội mà tham nhũng của quan chức và dối trá của mọi người trở nên phổ biến.

Mặc dầu người ta thỉnh thoảng có nhắc đến “phát triển bền vững”, nhưng chỉ nói cho có chuyện. Thực tế sự phát triển của VN gây ra nhiều hủy hoại môi trường vật chất (đất, nước, không khí) và môi trường tinh thần.

Mỗi lần đại hội Đảng, người ta lại đề ra chỉ tiêu này nọ để thảo luận rồi biểu quyết. Đó là cách làm hình thức còn rơi rớt lại từ nền kinh tế và chính trị kế hoạch hóa. Hãy hỏi những người bấm nút đồng ý với chỉ tiêu này nọ, xem họ có hiểu tại sao, ở đâu ra chỉ tiêu đó mà không thể tăng hay giảm. Có khả năng trên 98% người không hiểu, họ bấm nút trong trạng thái vô ý thức, bấm theo một sự chỉ đạo từ trên mà chính người chỉ đạo cũng không hiểu.

Đảng, nhà nước đặt chỉ tiêu phát triển cho các ngành kinh tế là việc đã lỗi thời, gây ra những trạng thái tâm lý giả tạo, lợi bất cập hại.

Một mong ước của người Việt, nghe qua thì rất hay, là động lực, nhưng mong ước quá lại thành ảo tưởng, đó là mong ước được xếp ngang hàng, được sánh vai cùng các cường quốc. Ý này lần đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm 1945. Và bây giờ có nhiều người Việt mong ước được như vậy, thể hiện ra ở nhiều việc chạy theo hình thức, tạo thành tích dỏm, mang nặng dối trá, không thực chất. Riêng những lãnh đạo của ĐCSVN còn có mong ước, đảng của họ thành ngọn cờ trong phong trào giải phóng dân tộc, thành tấm gương trung thành bảo vệ CNML. Trong di chúc, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn thể hiện lòng mong ước Đảng ta làm được việc đoàn kết các đảng của Nga Xô và Trung Cộng. Ông Nguyễn Văn Linh còn đề nghị với Gorbachev cùng cứu vớt các ĐCS Đông Âu, bảo vệ phe XHCN vào năm 1990. Mong ước của Hồ Chí Minh và đề nghị của ông Linh phải chăng có ẩn ý rằng ĐCSVN có vị thế cao trong hệ thống CS của thế giới?

Thế thì có nên mong ước như vậy không? Theo tôi thì vừa nên, vừa không nên. Rất nên mong ước đến cháy bỏng việc phát triển đất nước cả kinh tế và văn hóa, đặc biệt là phát triển kinh tế bền vững, kinh tế tri thức trên nền tảng văn hóa nhân bản thật sự tốt đẹp, chứ không phát triển kinh tế một cách vội vàng, chụp giựt trên một nền tảng văn hóa vô sản, phản Đạo Trời như đã kể. Mục tiêu chính của phát triển là vì Tự do và Hạnh phúc của toàn dân và của mỗi người. Hãy khôn ngoan, thông minh và cố gắng hết sức có thể. Thế rồi được xếp hạng nào, thứ bậc bao nhiêu là việc của người khác, có thành hổ thành rồng đến đâu là do người ngoài đánh giá.

Không nên quan tâm việc được xếp thứ bậc bao nhiêu, vượt được ai hay không, vì khi mình phát triển thì người ta có dừng lại đâu, mà còn có thể phát triển nhanh hơn. Chỉ có thể đặt mức phấn đấu, sau bao năm nữa đạt đến mức tương đương như A hoặc B bây giờ.

Một số người nêu thí dụ về Singapore và Nam Hàn để nói rằng, VN cũng có khả năng như họ. Tôi tìm hiểu thì trước đây họ không hề đặt mục tiêu thành hổ, thành rồng, không mong ước xếp hạng cao hoặc sánh vai với ai cả. Lãnh đạo dạy dân họ và tạo thể chế để dân phát huy năng lực sáng tạo, rồi được đến đâu hay đến đó. Mà như Nam Hàn và Singapore phát triển kinh tế dựa trên nền tảng văn hóa nhân bản, tránh được những việc làm trái Đạo Trời của cách mạng vô sản theo CNML.

Singapore và Israel là những nước mới thành lập, ban đầu họ đã thảo luận, cân nhắc rất kỹ, thậm chí đấu tranh kịch liệt trong việc chọn đường đi theo Thế Giới Tự Do hay theo Xã Hội Chủ Nghĩa. Kết quả sự lựa chọn của những nhà lãnh đạo của họ là chính xác. Nhân dân không lựa chọn con đường, không lựa chọn thể chế, mà chỉ đi theo một cách tự giác hay bị bắt buộc. Trong nền dân chủ thực sự thì dân chỉ lựa chọn đảng chính trị khi bầu cử. Ai đó nói rằng, nhân dân đã lựa chọn chế độ chính trị là không đúng, mang tính bịa đặt.

Trong sách Một Đời Quản Trị, GS Phan Văn Trường chỉ ra rằng, sự thành đạt của các tập đoàn kinh tế, công nghiệp dù lớn hay bé trên toàn thế giới (hoặc các Công ty) phụ thuộc chủ yếu vào Văn Hóa của tập đoàn (hoặc Công ty) mà văn hóa đó do tầng lớp tinh hoa gây dựng theo phẩm chất cao thượng của người đứng đầu.

Sách “Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại” chỉ ra rằng, thành hay bại là do thể chế. Có thể chế chính trị và thể chế kinh tế với bốn kết hợp:

1) Khi cả hai thể chế đều tốt, hợp Đạo Trời, thuận Lòng Người thì xã hội phát triển, phồn vinh.

2) Khi cả hai đều xấu, trái Đạo Trời, ngược Lòng Người thì tầng lớp thống trị giàu to, quyền lớn, còn nhân dân sẽ chịu thống khổ, xã hội suy tàn.

3) Khi chính trị tốt mà kinh tế xấu thì đời sống tinh thần, văn hóa của xã hội được thuận hòa, vui vẻ, còn đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn.

4) Khi chính trị xấu (độc tài, tàn bạo) mà kinh tế tốt thì tuy đời sống vật chất có khá nhưng sự phân hóa giàu nghèo là rất lớn, đời sống tinh thần ngột ngạt, nhân quyền và công lý bị chà đạp, người dân sống trong sợ hãi và bị áp bức, mà kinh tế cũng phát triển không bền vững.

Vào thập niên 70 và 80 Việt Nam rơi vào kết hợp 2. Nhờ hồng phúc của Tổ Tiên mà một số lãnh đạo lúc đó đã nhận ra sai lầm, sửa sai thể chế kinh tế (mà nói chệch thành đổi mới, mở cửa) cứu dân tộc khỏi tai nạn chết đói. Gọi đó là đổi mới lần một về kinh tế. Việc đổi mới này thực chất là làm ngược lại CNML. Dư luận rộng rãi cho rằng, rất cần đổi mới lần hai về chính trị.

Đã từng có những cán bộ cao cấp nghĩ và chuẩn bị cho việc này như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Võ Văn Kiệt, nhưng rồi những người đó chưa thành công mà CS còn bắt bỏ tù ông Chính, khai trừ ông Độ, ông Bách, phản đối ông Kiệt. Phải chăng các ông ấy chưa gặp thời, chưa tạo được thế, đành ôm hận ra đi, như Nguyễn Thái Học với an ủi “Không thành công, chỉ thành nhân”. Phải chăng con người có số mệnh, tác động trong khoảng trăm năm, và như Nguyễn Du nhận xét: “Có Trời mà cũng có Ta”. Có Trời là số mệnh, có Ta là sự nhận thức, tu dưỡng, hành động nhằm tạo phúc đức. Thành công hay thất bại của một con người là do kết hợp giữa số mệnh và sự tu dưỡng cùng hoạt động của người ấy. Và theo tổng kết đáng tin cậy là “Đức năng thắng số”.

Phải chăng Dân tộc cũng có số mệnh như con người, chỉ khác là số mệnh Dân tộc kéo dài rất lâu, đến hàng ngàn, hàng vạn năm. Sự thành bại của một dân tộc là do kết hợp số mệnh với nền văn hóa do dân tộc đó tạo ra, với những hoạt động thực tế tác động đến thiên nhiên và xã hội.

Sau một thời gian dài, gần thế kỷ tồn tại của ĐCSVN, dân tộc Việt đã có những thắng lợi và thất bại, có những cơ sở vật chất và tinh thần được xây dựng và bị hủy hoại. Cũng nên có nghiên cứu, tổng kết để đánh giá tương đối đúng thực trạng thì mới có thể dự báo tương lai, mới có thể vạch đường cho tương lai. Để làm việc này thì phải trung thực, khách quan, không do Đảng chỉ đạo, tránh xa CNML thì mới mong có được kết quả đáng tin cậy.

Diễn tiến lên hay xuống của sự việc có thể là từ từ, từng bước nhỏ kế tiếp hoặc là bước nhảy đột xuất. Cách mạng là một bước nhảy.

Về CS, tôi xem xét ba mức độ: Chủ thuyết, tổ chức đảng và đảng viên. Chủ thuyết CS do Mác đề xướng chứa đựng nhiều sai lầm từ cơ bản, chủ trương làm những việc trái Đạo Trời. Nó đã từng hoành hành, nhờ ngụy biện xảo trá mà lôi cuốn được một số người, nhưng càng ngày càng lộ rõ bản chất tàn bạo và dối trá. Nó không thể cải tạo mà cần đánh đổ, nó không có tương lai. Nó đã bị đa số nhân loại lên án, sớm hay muộn sẽ bị đào thải theo quy luật tự nhiên.

ĐCSVN là một tổ chức, trong điều lệ ghi là “Đội tiên phong của giai cấp”, nhưng đó chỉ là lời rập khuôn sáo vẹt của những người kém trí tuệ. Thực chất, ngay từ đầu ĐCSVN là tổ chức của những người yêu nước, những đảng viên đầu tiên là những con người có phẩm chất cao thượng. Đảng do Nguyễn Ái Quốc lập ra để đấu tranh giành độc lập. Năm 1946, thấy rằng nếu lập đảng khác sẽ tốt hơn nên Hồ Chí Minh đã có ý kiến giải tán ĐCS Đông Dương nhưng rồi lại rút vào bí mật và không hiểu vì sao đã phạm sai lầm khi tuyên bố tự giải tán. Sự dối trá ấy sớm bị phát hiện. Và rồi Đảng càng ngày càng suy thoái do đường lối tổ chức sai, kết nạp vào Đảng nhiều kẻ cơ hội, do vẫn kiên trì CNML có nhiều độc hại.

Tương lai của ĐCSVN có thể theo một trong ba hướng:

Hướng thứ nhất là diễn tiến từ từ với những biện pháp xây dựng đảng như các điều cấm, những nghị quyết về nêu gương, làm trong sạch, với những cái lồng nhốt quyền lực, những việc chống tự diễn biến, tự chuyển hóa, đốt lò, chống tham nhũng v.v… Theo hướng đó thì càng ngày Đảng càng thoái hóa, đi đến sụp đổ, đến cáo chung (như ông Đào Tăng Dực và nhiều người mong ước). Tương lai đen tối dù cho có được Trung Cộng hà hơi tiếp sức.

Kich bản A của hướng này là sự sụp đổ của Trung Cộng sẽ kéo theo sự sụp đổ của Việt Cộng. Trung Cộng thời Tập Cận Bình đang bành trướng mạnh, có thể vượt lên thao túng thế giới trong một thời gian ngắn rồi sụp đổ. Quy luật lịch sử là như vậy.

Kich bản B là bị đánh đổ, đã xảy ra ở vài nước ở Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungaria, Đông Đức. Tuy hiện nay ở VN, khả năng này ít có cơ hội vì Trung Cộng đã rút được những bài học đàn áp và huấn luyện cho Việt Cộng để đối phó. Nhưng trong tương lai thì chưa biết được như thế nào.

Hướng thứ hai là, với những đảng viên hiện có, đổi tên đảng (hoặc không đổi cũng được), từ bỏ CNML, thay điều lệ, làm một bước nhảy tiến lên, trở thành một đảng chính trị (xem rằng đã làm xong nhiệm vụ của một đảng cách mạng). Được như vậy thì sẽ có tương lai sáng sủa, có thể cầm quyền lâu dài, được nhân dân tín nhiệm, được lịch sử ghi nhận. Đây là mong ước cứu Đảng của ông Nguyễn Trung và nhiều người cả bên A và B.

Hướng thứ ba là chia đảng làm hai (giống đảng Xã hội Nga năm 1905, chia thành Bolshevik và Menshevik). Kịch bản như sau: Trong các cán bộ cấp cao của Đảng xuất hiện một số người muốn cứu Đảng, muốn cải cách. Họ bí mật trao đổi, vận động để tạo lực lượng ủng hộ trong BCH trung ương, đồng thời phải vận động được sự ủng hộ của một số lực lượng vũ trang và xã hội dân sự. Trong một lần họp BCH Trung ương, một người đề xuất việc đổi mới Đảng theo hướng từ bỏ CNML và đề nghị thảo luận. Có ba trường hợp có thể xảy ra.

Trường hợp 3.1: Hội nghị thảo luận, đấu tranh. Nếu bên cải cách thắng thế thì chuyển sang hướng thứ hai (đã viết ở đoạn trước). Được như thế là hồng phúc cho Đảng và Dân tộc. Đây là trường hợp đã xảy ra ở Mông Cổ, rất nhẹ nhàng, hiệu quả. Một biến thể của trường hợp này là xuất hiện một nhân vật như Gorbachev của Liên Xô.

Trường hợp 3.2: Nếu bên cải cách không thắng thế thì tuyên bố ly khai và lập đảng mới. Ai đồng ý thì đến họp ở một nơi khác để tiến hành. Trong lúc ở Hà Nội xảy ra việc trên thì tìm cách đưa thông tin ra ngoài. Các nơi tổ chức mitting, biểu tình được quần chúng ủng hộ. Đơn vị vũ trang ủng hộ nhanh chóng tiếp cận nơi họp để bảo vệ. Đây là đấu tranh nghị trường trong nội bộ Đảng nhưng phải chuẩn bị chống lại đàn áp, bảo vệ lực lượng.

Trường hợp 3.3: Vì không giữ được bí mật, kế hoạch đã bị lộ, phe bảo thủ đã có chuẩn bi, huy động lực lượng vũ trang trấn áp thì sẽ xảy ra xung đột. Chuyện như vậy cũng thường gặp.

Đảng viên cộng sản, ngoài một số kẻ cơ hội thì cũng còn nhiều người có phẩm chất tốt, hiểu rõ mặt trái của CNML. Một số đông hưu trí bỏ sinh hoạt, số khác lặng lẽ hoặc công khai tuyên bố từ bỏ Đảng. Những người còn ở lại trong Đảng mà dám nghi ngờ CNML thì bị buộc tội tự chuyển biến, tự chuyển hóa, bị ghép chung với bọn mất phẩm chất vì thoái hóa đạo đức, tham nhũng, phạm tội. Trong dân có câu “Người ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt”. Phẩm chất tốt của những đảng viên như vậy không phải nhờ giác ngộ CNML mà đó là nhờ đạo đức nhân bản vốn có của họ từ trước khi vào đảng.

Về tương lai của Dân tộc, phần lớn phụ thuộc vào sự diễn tiến của ĐCS. Nếu Đảng diễn tiến theo hướng bảo thủ, kiên trì CNML để đi tới sụp đổ thì rõ ràng tương lai của Dân tộc và của Đảng là khác nhau, mâu thuẫn nhau. Đảng có thể bị sụp, bị xóa, nhưng Dân tộc thì không thể.

Trong quá trình duy trì sự thống trị, Đảng quan tâm đến phát triển kinh tế và nói đến những điều tốt đẹp về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền. Người ta tưởng nhầm rằng Đảng rất chăm lo đến đời sống nhân dân. Bên ngoài thấy như thế, nhưng bên trong lại khác. Đảng chăm lo đến kinh tế để nhà nước thu được nhiều thuế, tăng ngân sách. Đó là nguồn sống của Đảng, cũng là nguồn để tham nhũng. Khi nghe nói về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, một mặt nên biết đó chỉ là lời tuyên truyền mị dân, mặt khác cần bám vào nó để đấu tranh đòi thực hiện chứ không nói suông.

Khi nói quyền lợi của Dân tộc có lúc mâu thuẫn với quyền lợi của Đảng thì đó không phải là quyền lợi của các đảng viên thường mà là quyền lợi của các cán bộ cấp cao của Đảng. Khi đảng có bị sụp đổ thì các đảng viên thường lại trở về với Dân tộc.

Dưới thời đô hộ của thực dân Pháp, Dân tộc Việt không chỉ chịu cảnh lầm than, bị áp bức mà còn được khai hóa. Nhưng trong thời kỳ độc lập, tự chủ, Dân tộc Việt cũng nhiều lần chịu lầm than vì gặp phải hôn quân bạo chúa như thời Lê Ngọa Triều, thời mạt Lý, mạt Trần, một vài đời vua Lê chúa Trịnh và Trịnh Nguyễn phân tranh.

Nhưng rồi không thể biết vì lý do nào mà lại mắc vào tai họa mấy chục năm chiến tranh tàn phá, huynh đệ tương tàn, rồi tai họa cộng sản với hình tượng “Đuổi hổ cửa trước rước sói cửa sau”. Dẹp được sự áp bức của thực dân lên tầng lớp này thì lại tạo ra áp bức của chuyên chế lên tầng lớp khác, kiểu “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” (Áp bức vẫn còn, chỉ thay đối tượng và hình thức).

Suy nghĩ về khả năng tránh được chiến tranh và tai họa của CNML, tôi thấy VN đã bỏ qua một số cơ hội. Việc ĐCSVN chớp được thời cơ vào tháng 8-1945 để cướp chính quyền, đã làm cho Dân tộc Việt bỏ lỡ thời cơ giành độc lập trong hòa bình.

Khi trao đổi với bạn bè, chỉ có ít người đồng ý với tôi là VN có khả năng tránh được tai họa mà vẫn giành được độc lập như nhiều nước cùng cảnh ngộ. Nhưng số đông hơn không đồng ý, cho rằng cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp là không thể nào tránh khỏi và quy hết tội lỗi cho Chính phủ Pháp năm 1945-1946 mà đại diện là Decou và Bolaec.

Phải chăng số mệnh của Dân tộc nó xui ra như vậy. Qua thảo luận giữa nhà văn Nguyên Ngọc và bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước), thì mầm mống của tai họa bắt đầu từ năm 1920, khi Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu thành lập ĐCS Pháp.

Phải chăng ngoài lý do gần, do con người tạo ra, thì liệu có còn lý do nào thuộc tâm linh. Dân tộc Việt vốn tôn trọng tâm linh, chẳng qua trong thời gian ngắn vì bị tuyên truyền mà theo duy vật và cam chịu thống trị của chuyên chính vô sản, đến độ nền văn hóa truyền thống, nhân bản bị hủy hoại, tầng lớp tinh hoa bị làm cho thoái hóa. Nhưng Dân tộc Việt vốn có sức sống mãnh liệt, tầng lớp tinh hoa sẽ dần được khôi phục để hướng dẫn tạo lập nền văn hóa nhân bản, làm cơ sở cho phát triển mọi mặt.

Không nhanh được thì chậm một chút, cách gì rồi Dân tộc Việt cũng thoát ra được tai họa do CNML gây nên để tạo lập tương lai tươi sáng, đem Tự do, Hạnh phúc cho toàn dân và mỗi người chứ không cần sánh vai với ai, không cần xếp hạng trên nước này, nước nọ, với những con số GDP giả tạo, với những chỉ tiêu duy ý chí, không cần giương cao ngọn cờ dẫn đường cho ai cả, bỏ hết tính kiêu ngạo và sĩ diện muốn hơn người.

Tôi vẫn rất tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đang cố gắng đóng góp một phần sức lực và trí tuệ, tuy chỉ rất nhỏ bé, cho tương lai đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét