Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 4)


Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 4)

GS Lê Hữu Khóa
25-7-2018
Tiếp theo phần 1 — phần 2 — phần 3
Tuệ giác khử ngu dân
Con người có được văn minh của dân chủ, xây dựng trên văn hiến của nhân quyền, tại đây mỗi cá nhân là một chủ thể của hệ tự (dùng tự do tới từ tự giác làm nên tự tin nâng cao tự trọng để bền vững trong tự chủ), đây là điều mà các tà quyền dùng chế độ ngu dân hóa để cai trị, luôn mất ăn mất ngủ và tìm mọi cách để truy diệt tự do.
Hegel phân tích rằng, chủ thể sẽ tự giải phóng mình bằng nhân lý của công bằng, nhân tri của công lý, nhân trí của công pháp để bảo vệ nhân phẩm của mình. Một nhân phẩm luôn biết dựa trên hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức để luôn tỉnh thức), đây là quá trình học hỏi để tự chủ trong tự tin, phải đấu tranh để có tự do vì biết tự trọng, với quyền tự quyết để loại, trừ, khử, bỏ mọi ý đồ ngu dân tới từ tà quyền. Ngay trong tri thức đã có cội nguồn của tư duy, giúp chủ thể muốn tự giải phóng mình phải suy nghĩ về điều kiện làm người của mình để tổ chức lại tuệ giác, rồi biến nó thành lý trí trong đấu tranh vì nhân quyền. Chính sự hoàn chỉnh của tri thức trực diện để chống chế độ ngu dân hóa, nên tri thức làm nên sự chỉnh lý của tuệ giác, lấy sự toàn lý của trí tuệ để loại mọi hậu quả và hệ lụy của ngu dân đang làm cho nhân tình đui, què, câm, điếc giữa nhân sinh.
Husserl đề nghị trong hiện tượng luận rằng chính quan hệ song hành giữa thế giới bên ngoài và tư tưởng bên trong của mỗi cá nhân làm nên tư duy, luôn mang theo một động cơ là ý định đi tìm tri thức làm nên ý muốn nhìn về phía các chân trời của tương lai luôn rộng hơn, cao hơn, tốt hơn số kiếp ngu dân mà mình đang gánh chịu. Chính quan hệ song hành này tạo ra cặp đôi tri kỷtrong hành động của mỗi cá nhân: biết để hiểu và hiểu đúng để biết trúng, từ đó đốn tận gốc, chặt tận rễ, đẽo tận cội của mọi chính sách ngu dân. Tại đây khi thấu hiểu hiện tượng thì con người tìm hiểu thêm về 5 hiểu biết khác để có ít nhất 5 nhận thức: hiểu sự cố đang diễn biến qua hiện tượng; hiểu quy luật đã tổ chức ra sự cố; hiểu kỹ thuật cũ đã làm ra quy luật cũ; học kỹ thuật mới để điều chỉnh quy luật cũ; hiểu sự vận hành quá trình của quy luật cũ để chế tác ra chủ thể mới với kiến thức mới, từ đó tự giải phóng, tự phát triển, tự thay đời đổi kiếp. Đây là quá trình làm người: thấy-hiểu-lấy để đổi-biến-tạo, để đi về hướng khá hơn vì tốt hơn, giỏi hơn vì hay hơn.
Levinas, cho rằng chính chủ thể có trách nhiệm với số kiếp của mình, có bổn phận với tha nhân, cùng là đồng loại với mình, nên chủ thể không sao chấp nhận được mình phải chịu làm nạn nhân cho một quá trình ngu dân hóa. Chủ thể mang tuệ giác để chống ngu dân vì biết dùng tri giác để chế tác ra trí tuệ, để có ý thức làm chủ cuộc đời của mình trong nhận thức phải đấu tranh để thoát kiếp ngu dân, trong tâm thức gầy dụng nên kiếp người vừa thực, vừa khôn để chống ngu, chống xuẩn. Chủ thể khi được định nghĩa sống-để-thấy, rồi thấy-để-thay, thay cái tồi để có cái hay, để có điều kiện làm người tốt nhất. Từ đây, chủ thể đang xây dựng ý thức làm người cho chính mình để cùng đấu tranh với tha nhân; để gầy dựng nên ý thức nhân quyền trong nhân loại.
Đây là cuộc hành trình trong khám phá đôi: khám phá tri thức để khám phá sự cố, để được làm người với nhân phẩm; và khám phá cặp đôi này sẽ sinh rakhám phá bộ ba trong cuộc sống: khám phá bên ngoài để khám phá bên trong; khám phá tha nhân để khám phá chính mình; khám phá tha nhân bên ngoài để nuôi tư duy bên trong cho chính mình. Từ đây thay đổi não trạng để xua đuổi kiếp nạn nhân vì ngu dân tổ chức bởi tà quyền. Tổng cộng 5 khám phá này là 5 nguồn kiến thức cho nhân sinh để nhận ra nhân tri để làm người hay, có nhân trí để làm người khôn, có nhân lý để làm người đúng, cónhân nghĩa để làm người lành, có nhân phẩm để làm người tốt.
Ngu dân chỉ là ý đồ hạn hẹp trong cái ngu của tà ý, ngược lại với ý muốn tự làm mình khá hơn, tốt hơn, giỏi hơn, hay hơn, đây chính là sung lực làm nên hùng lực của ý định đi về phía hay, đẹp, tốt, lành của đạo lýTại đây tính khoa học, tính khách quan, tính vô tự lợi của kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức để tỉnh thức luôn đứng về phía ánh sáng, từ chứng minh tới chứng thực. Còn các chính sách ngu dân hóa của tà quyền thì phải lẫn lách trong bóng tối như ma xó, phải chui rút trong bùn nhơ như ma bùn, vì chúng sợ ánh sáng của sự thật làm nên chân lý để tạo dựng ra lẽ phải!
Thực trí loại ngu dân 
Chất thực của kiến thức có từ-thấy-qua-tin trong sự thật vô trương bất tín(không thấy thì không tin), cho nên các hệ thống tuyên truyền ngu dân hóa luôn chôn giấu cái thực của trí, làm nên sức mạnh liên đới giữa sự thật và lý trí, và tà quyền khi tổ chức chế độ ngu dân, thường rất sợ sự liên minh sự thật-lý trí này, qua câu ông bà đã dặn con cái: “biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Nhưng tuyên truyền để ngu dân hóa thì phải luôn nói dối, nói láo, nói sạo, nói ngoa, nói điêu, nên tà quyền cũng rất ngại một bài học của đạo Lão: “ngu hay nói nhiều”, vô tri nên ngụy ngôn để nhồi sọ dân chúng, xảo ngôn để xóa não quần chúng.
Quá trình thực trí loại ngu dân là quá trình truyền đạt kiến thức thật để có tri thức thật, trong cái chỉnh lý của lý trí, trong cái hợp lý của trí tuệ, khi mà tri thức đã giúp tạo nên ý thức, thì nó đi vào lý trí để biến thành nhận thức, và nó sẽ đi ra như tâm thức để trở thành hành động đấu tranh cụ thể. Khi kiến thức đã kiến trúc hóa được tri thức, thì tri thức có khả năng biểu quyết để phán quyết!
Đây là một nỗi lo khác của tà quyền dùng ngu dân hóa để cai trị, nó ngày đêm mất ăn mất ngủ vì nó sợ bị ý thứcsẽ vén màn cho ánh sáng của nhận thức vào để lột mặt nạ tà quyền đã che giấu để bưng bít, đã dối trá để lừa đảo. Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) chính là nơi sinh ra đạo lý của hay, đẹp, tốt, lànhcho nhân lý, để làm nên luân lý của trách nhiệm và bổn phận cho nhân đạo, trong đó cá nhân và tha nhân cùng sống, cùng chia nhau từ quyền lợi tới trọng trách phải bảo vệ nhân tính.
Khi hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tâm thức) vừa biết dựa, vừa biết bảo vệ hệ nhân (nhân tính, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn) vì nhân quyền, thì sự kết hợp giữa hai hệ này (thức và nhân) sẽ tạo ra hệ công (công bằng, công lý, công pháp), đó là ngày báo tử của tà quyền ăn gởi sống nhờ qua chế độ ngu dân hóa của nó. Vì 3 hệ này (thứcnhân, công) có tính khách quan nên là đồng minh của tính khoa học, đồng đội của tính vô vụ lợi, ngược lại với tà quyền là luôn biến quyền lực của nó thành quyền lợi để có tư lợi trong tham ô và tham nhũng. Chính tại đây tà quyền rất lo vì rất sợ hệ lý (lý luận làm ra lập luận, giãi luận làm nên diễn luận), tà quyền lo và sợ vì khi nó rơi vào hệ  này thì nhân dân sẽ thấy hệ bất (bất tài, bất chính, bất tín, bất trung) của nó. Nó sẽ bị lộ nguyên hình dối, xạo, dóc, láo để trộm, cắp, cướp, giựt qua chế độ ngu dân hóa của nó.
Ngu dân ngày đêm truy diệt nhân tri, nên nó luôn tìm cách thủ tiêu sự thông minh để ám sát sự sáng tạo, tà quyền luôn biến dân tộc thành lao nô chớ không muốn dân chúng trở thành chủ thể để phát minh, phát triển cho đất nước. Đây là thảm kịch của Việt tộc hiện nay dưới tà quyền của đảng CSVN, nơi mà quần chúng thành lao nôngay trên quê hương mình cho nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp của Tàu tặc, nơi mà xuất khẩu lao động để làm nô lệ, nô tỳ cho các nước láng giềng gần xa.
Nếu thật sự Việt tộc có văn hiến vì có văn minh trong thông minh và sáng tạo, thì chắc chắn sẽ nổi lên trong phong trào đòi dân chủ, để sau đó trở thành nổi dậy vì nhân quyền, vì nhân phẩm Việt tộc, một nhân phẩm không bao giờ chịu khuất phục bởi bạo quyền của ngoại xâm hay nội xâm. Đây không chỉ là quá trình của nhân phẩmmuốn bảo vệ nhân tính, mà nó chính là quá trình duy lý hóa của 4 hệ: nhân, thức, lý, sáng làm nên tổng lực để thay đời đổi kiếp mà trước mắt là xóa ngu dân, cùng lúc dẹp tà quyền. Chính kiến thức xóa ngu dân để chống độc quyền của độc tài, chính công lý loại bạo quyền để chống tham nhũng qua tham quyền, chính lý luận dứt bỏ độc đảng để chống độc trị, chính sáng kiến qua sáng tạo sẽ bứt hết ngu dân ra khỏi xã hội, để giải phóng nhân tình hiện nay ra khỏi tuyên truyền một chiều kiểu lưỡi gỗ.
Muốn   bảo trì tư lợi bất chính thì tà quyền phải tiếp tục chế dộ ngu dân, cùng lúc kiểm soát đời sống xã hội, canh giữ sinh hoạt xã hội, rình rập các quan hệ xã hội và sẵn sàng đàn áp, bắt bớ, giam giữ, khủng bố, ám hại chính nhân dân của nó qua tà cách bóp méo tin tức, thao túng thông tin, giật dây truyền thông, để bóp chết sự thật, chôn sống chân lý, xiết ngộp lẽ phải. Tà quyền dàn dựng cơ chế ngu dân, qua định chế lừa dân, để có tư pháp giả với pháp luật ngoa, để lập án xử dân, từ đó vo tròn bóp méo mọi dữ kiện, mọi chứng từ, lấy giả làm thật, lấy sai thay đúng, trong đó tuyên truyền đã thành bản năng để nói dối, nói dóc, nói xạo, nói điêu.
Weber phân tích rõ là tà quyền trong tà đạo vì tư lợi và vì tiện lợi, nơi mà tư lợicó được qua tư quyền hóa chính quyền, tiện lợi vì ăn gian nói dối trong xảo trá dễ hơn phải chăm chỉ học hành trong ngày đêm đèn sách; vì ăn điêu nói ngoa để lừa đảo dễ hơn tu tâm dưỡng tính; vì ăn trên ngồi trốc qua gian lận dễ hơn ăn bữa sáng lo bữa tối trong lương thiện. Ông tổ của ngành xã hội học cận đại này lấy những thí dụ rất rành rành trong cuộc sống, trong lao động, trong xã hội, thí dụ như trong sinh hoạt khoa học, luôn luôn có bọn muốn làm hành chính để quản lý sáng tạo khoa học, vì chúng hoàn toàn thất bại trong thao tác khoa học. Ở đây chúng dùng hành chính để có quyền lực, khư khư giữ con dấu để được ký tên vào các quyết định trong các ngân sách cho các sinh hoạt khoa học, từ đó “kiếm chác” bằng cơ chế qua hành chính. Nơi mà kẻ bất tài nhiều hơn người có chân tài. Nơi mà bi hài kịch bất tài quyết định số phận và số phần cho chân tài.
Tri kiến xóa ngu dân
Tri kiến là tri thức thực được xây dựng bằng kiến thức thật, nó vừa có thể lực của chứng minh, vừa có trí lực của xác chứng, có tâm lực trong mọi chứng từ. Nó giải thích và lột mặt nạ chớp nhoáng mọi ý đồ ngu dân hóa của tà quyền qua thông tin, dữ kiện, chứng nhân… Nên nó luôn mang theo trong sung lực của hiệu quả thực của giải phóng thật, tích cực thực của cách mạng thật, nó biết trần trụi hóa được tà quyền để phóng thích các nạn nhân của ngu dân.
Miller khẳng định, khi tri kiến thành lý trí thì nó đã trở thành tư tưởng để con người kiểm định trong sáng suốt, kiểm tra trong tỉnh táo mọi hành động của mình, nơi đây tà quyền với trò ngu dân hóa của nó không có chỗ đứng lẫn chỗ ngồi trong tri kiến.
Turing phân tích, khi lý trí đúng được xây dựng bởi tri kiến thật, nó có khả năng dò xét tận tường các thông tin, phân định kỹ lưỡng vai trò của truyền thông để loại tuyên truyền một chiều kiểu lưỡi gỗ ra khỏi trí tuệ, để lý trí và trí kiến không bị ô nhiễm bởi ý đồ của tà quyền.
Dennett giải luận quan hệ giữa lý trí và não trạng rốt cuộc chỉ là một khi tri kiến và tuệ giác cùng nhau ngự trị để giữ vững ý thức luôn phải chỉnh lý qua tin tức chỉnh, qua truyền thông chỉnh, đây là quá trình kết hợp hài hòa lý trí-tri kiến-tuệ giác-ý thức để bảo đảm sự chỉnh lý trong mỗi hành động, để bảo trì cho mọi cá nhân, mọi tập thể, mọi cộng đồng sự hợp lý để sống cuộc sống đáng sống.
Khi tổng kết các phân tích của các tác giả trên, thì tri kiến mang bản lĩnh của tri thức, nội công của kiến thức, để bảo đảm từ phân tích tới quyết định, từ hành động tới phân xử, trong đó tri kiến luôn trực diện để đấu tranh trước mọi chính sách ngu dân hóa của tà quyền. Chính quá trình kết hợp hài hòa lý trí-tri kiến-tuệ giác-ý thức sáng tạo ra tri thức luận, trong đó tri kiến vừa là ngữ vựng, vừa là văn phạm để “lật tẩy”mọi chính sách ngu dân, tại đây tri kiến vừa là ngữ văn, vừa là ngữ pháp để “lột mặt nạ” tà quyền.
Tri kiến thực dựa trên tri thức thật và kiến thức thật, cả hai đủ lực, đủ tầm để quản lý từ kinh nghiệm của nhân sinhtới ký ức của nhân loại, để làm gốc cho tuệ giác, trong khi đó ngu dân của tà quyền chỉ là chuyện sớm nở tối tàntrong nhân thế.
***
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm các lập luận qua nghiên cứu của VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa) qua www.facebook.com/vungkhaluan/
____
Mời đọc lại các bài khác của tác giả: Thư gởi tuổi trẻ của Việt tộc  —  Thư gởi các đảng viên của ĐCSVN: Trả lại thẻ đảng để nhận lại nhân phẩm Việt!  —  Thư gởi các ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN  —  Thư gởi các đại biểu Quốc hội: Cúi đầu bấm nút, rồi cúi đầu quỳ gối!  —  Thư gởi các Bộ trưởng của chính phủ: Chạy chức hay chạy dân? —  Thư gởi các nhà lãnh đạo tương lai của Việt tộc: Lãnh đạo nhận nhân lý, nhập nhân trí  —  Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 1)  —  Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 2)  — Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 3) —  Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 1)  —  Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 2)  —  Một xã hội bị khổ sai hóa (Phần 1) —  Một xã hội bị khổ sai hóa (Phần 2)  — Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 1)  — Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 2)  —  Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 3)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét