Chúng ta đang ở đâu?
25-5-2018
Một đất nước có dân số lớn 13 thế giới trong độ tuổi vàng, thì chuyện tăng trưởng cao là trong tầm tay, miễn là đừng can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế. “Cá nhân tôi nhận thức rằng, kinh tế phát triển cuối cùng phải do người dân và doanh nghiệp”, TTg ngẩng cao đầu nói sáng nay với các DN Châu Âu, ko nhìn vào bài diễn văn soạn sẵn.
Sau nhiều cú sốc làm người dân lao đao, doanh nghiệp gục ngã, kinh tế vĩ mô bắt đầu ổn định trở lại từ năm 2013. Đến hai năm nay, nền kinh tế đã bật lên cao hơn so với các nước láng giềng. “Kinh tế tăng trưởng cao trước hết phải nhờ vào TTg. Ổng đã chỉ đạo rất sát sao”, ông Tuyển, ông Cung nói.
Đặc biệt, kể từ 2017 đã xuất hiện một số dấu hiệu cải thiện chất lượng tăng trưởng, ví dụ không còn dựa nặng vào dầu thô, mà nhờ vào tiến bộ của công nghiệp chế biến, chế tạo, vào mức tăng đột biến khu vực nông nghiệp vụ và tăng xuất nhập khẩu. “Thành tích đó chủ yếu nhờ vào các giải pháp mang tính ngắn hạn, cộng với sự quyết liệt trong điều hành của TTg”, ông Lộc bổ sung thêm tại QH sáng nay.
Tuy nhiên, trong bài phân tích này, tôi muốn tập trung vào những điểm nghẽn hơn là những thành tựu.
Trên thực tế, chất lượng tăng trưởng vẫn còn là vấn đề rất đáng lo ngại, nó quá thấp và chuyển biến quá chậm. Tôi từng nêu tình trạng có tăng trưởng mà không có phát triển lâu nay, và nay nêu lại trong các biểu hiện chính.
THỨ NHẤT, mô hình tăng trưởng dựa vào gia công. Tiếc là vấn đề này ngày càng nặng nề hơn dù đã nói cả hai thập kỷ nay.
Nông nghiệp, ngành đang được cổ vũ phát triển theo hướng công nghệ cao, vẫn đậm chất gia công. Cả trồng trọt và chăn nuôi phụ thuộc vào nhập khẩu như: giống (80%), thuốc trừ sâu (34,9%), chưa kể tới máy móc nhập khẩu. Ông Đặng Kim Sơn nói: “Đầu tư chế biến, logitsc, tiếp thị, ưng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp gần như không có gì”.
Ngành chế biến, chế tạo – động lực tăng trưởng (9,6%/năm) trong toàn giai đoạn 2011-2017 – cũng đậm đặc chất gia công. Trong năm 2017 tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng rất cao là 14,5% chủ yếu là do kết quả của các ngành gia công, lắp ráp đạt tốc độ tăng trưởng cao: sản phẩm điện tử, máy tính, sản phẩm quang học 32,7% (gấp 2,25 lần tốc độ tăng trưởng ngành chế biến, chế tạo), lắp ráp ti vi 30,5% (gấp 2,1 lần). Samsung mà hắt hơi thì cả nền kinh tế lao đao.
Trong khi đó các ngành chế biến, chế tạo từ nguồn nguyên liệu trong nước (chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc, dệt may, giầy dép, sản xuất thuốc lá) chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bằng 1/3 tốc độ tăng trưởng ngành chế biến, chế tạo. Nói lần cuối tại QH năm 2016, ông Bùi Quang Vinh cảnh báo, các nền tảng công nghiệp của VN đang biến mất.
THỨ HAI, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá lớn vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nhưng đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng kinh tế, vào ngân sách Nhà nước, vào thu nhập của người lao động…không tương xứng.
Theo WB, năm 2016 tỷ trọng FDI trên GDP ở nền kinh tế VN lên tới 6,1%, cao bậc nhất thế giới, cao hơn rất nhiều so với 1,2% ở TQ, 0,4% ở Thái Lan, 0,3% ở Indonesia. “DN FDI vào chiếm lĩnh hết các ngành nghề thì DN VN không còn đất nào để phát triển”, bà Chi Lan lo sợ.
Bình quân năm giai đoạn 2011-2017, khu vực công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,6% nhưng khu vực FDI đã đóng góp khoảng 2/3 vào thành quả này. Tuy nhiên, hoạt động công nghiệp của khu vực FDI chủ yếu là công nghiệp gia gia công. Thí dụ, năm 2017 tăng trưởng ngành chế biến, chế tạo đạt 14,5%, đóng góp 9,4 điểm phần trăm tăng trưởng ngành công nghiệp, trong đó, Samsung và Formosa chiếm 4,02 điểm phần trăm (42,7%).
Xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian qua, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu đều do khu vực FDI quyết định. Từ năm 2005 đến 2016 tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng lên nhanh chóng từ 57% năm 2005 tăng lên 71% trong năm 2016. Năm 2017 con số này là 73%, và tăng trưởng 26%, cao hơn nhiều so với số liệu tương ứng trong nước là 27% và 16%.
Trong khi đó, hàm lượng giá trị gia tăng của khu vực FDI đóng góp vào nền kinh tế không tương xứng. Thí dụ, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng lên nhanh chóng từ 57% năm 2005 tăng lên 71% trong năm 2016, nhưng tỷ trọng đóng góp về giá trị gia tăng trong GDP của khu vực này tăng lên không đáng kể, chỉ từ 15,2% năm 2005 và 18,6% năm 2016. Điều này phần nào cho thấy khu vực FDI đang dần lấn lướt hoàn toàn khu vực kinh tế trong nước nhưng hàm lượng giá trị gia tăng của khu vực FDI đóng góp vào nền kinh tế không tương xứng. Có nghĩa, tôi và các bạn sẽ phải làm thuê những nghề rất kém cỏi ngay trên mảnh đất của mình mà thôi.
THỨ BA, hiệu quả tăng trưởng có chuyển biến chậm, còn rất thấp, tụt hậu ngày càng xa so các nước xung quanh qua hai chỉ số: hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) và năng suất lao động xã hội.
Hệ số ICOR của năm 2017 là 4,7 thấp hơn mức trung bình 5,2 giai đoạn 2011-2017. Tuy nhiên, hệ số ICOR của Việt Nam còn quá cao. Thí dụ, Nhật Bản (những năm 1970), Hàn Quốc, Đài Loan (những năm 1980) cũng với mục tiêu tăng trưởng nhanh như Việt Nam hiện nay nhưng hệ số ICOR chỉ là 2.5-3 (chỉ bằng ½ của Việt Nam).
Năng suất lao động xã hội năm 2017 có tăng lên khá so mức bình quân giai đoạn 2011-2017 (6% so với 4,7%). Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 7% của Singapore; 17,6% của Malaysia; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của Indonesia; 56,7% của Philippines và bằng 87,4% NSLĐ của Lào.
Điều rất đáng quan tâm là chênh lệch về năng suất lao động giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng, tức về số tuyệt đối, có nghĩa mức độ tụt hậu của chung ta tiếp tục tăng. Thí dụ, chênh lệch mức năng suất lao động của Singapore và Việt Nam tăng từ 115.087 USD năm 2006 lên 131.333 USD năm 2016; tương tự, của Lào từ 220 USD lên 1.422 USD trong cùng giai đoạn.
Vì thế, nếu cứ mãi tập trung vào tốc độ tăng trưởng mà không cải thiện chất lượng tăng trưởng một cách thực chất thì Viêt Nam sẽ ngày càng tụt hậu.
MỘT ĐIỂM NỮA, kinh tế hộ gia đình vẫn đang áp đảo, đóng góp tới 31-33% GDP (và chỉ đóng góp khoảng 1% vào thu nsnn). Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân vẫn không thể lớn sau 30 năm đổi mới, chỉ đón góp vỏn vẹn 8-9% GDP. Trong đời làm báo, tôi tiếp xúc duy nhất với 01 doanh nghiệp có tuổi thọ cao nhất là 31 năm (thành lập năm 87 nhờ luật công ty). Số DN có tuổi đời 20 năm cũng chẳng đáng bao nhiêu. Trong khi đó, mỗi năm có 100 doanh nghiệp ra đời thì cũng có 2/3 số đó chết đi.
Tôi không cảm thấy “vỡ òa” khi GDP “về đích”. Con rất nhiều rào cản kinh tế phát triển mà một số tôi đã nêu ở đây, một số chưa nêu. Song, tôi tâm nhiệm câu nói của Thủ tướng sáng nay với các DN Châu Âu, ko nhìn vào bài diễn văn soạn sẵn: “Cá nhân tôi nhận thức rằng, kinh tế phát triển cuối cùng phải do người dân và doanh nghiệp”. Vậy, Nhà nước, CP phải làm gì?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét