Hồi ký Lê Phú Khải – Lời ai điếu (kỳ 2)
(Trích một đoạn)
… Nói về Hà Nội những năm 50 đầu thế kỷ trước. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đến giai đoạn này đã chuyển sang thế phòng ngự và tấn công. Quân đội viễn chinh Pháp bắt đầu thua liểng xiểng. Người Hà Nội chứng kiến cảnh binh lính Pháp sau những ngày thua trận ở các nơi về Hà Nội với vẻ chán trường, râu tóc bơ phờ và… sống gấp. Các bar rượu, vũ trường, đèn xanh đỏ lập lỏe, nhốn nháo thâu đêm. Cũng nhờ đám viễn chinh này ăn chơi xả láng mà nhiều người cũng kiếm chác được nhờ phục vụ chúng. Có chị bán thuốc lá trước một rạp chiếu bóng kể bán thuốc cho tây một lãi mười. Khi một thằng tây mua gói thuốc, nó đưa tiền chẵn, khi trả lại tiền (miền Nam gọi là thối tiền), đáng phải trả lại mười thì chỉ trả lại một. Nó chẳng đếm lại bao giờ, đút tiền vào túi đi ngay. Nếu thấy nó đếm lại thì… cầm tiền đưa thêm, coi như chưa đưa hết!
Dạo ấy, cứ mỗi lần nghe thấy tiếng máy bay trực thăng trên đầu là lũ trẻ chúng tôi ở các phố Hàm Long, Lò Đúc, Lê Văn Hưu… chạy bán sống bán chết ra vườn hoa Pasteur. Ở đó có một bãi đất rộng cho trực thăng hạ cánh. Chúng tô nhìn thấy từ trên trực thăng các thương binh da trắng, da đen được khiêng xuống để đưa về nhà thương Đồn Thủy (nay là bệnh viện 108) để cứu chữa. Khi trện Điện Biên Phủ xẩy ra thì ở Hà Nội thật nhộn nhạo. Tin tức đồn đại khắp nơi. Báo bán chạy như tôm tươi. Hầu hết các gia đình trung lưu ở Hà Nội lúc đó đều mua báo hàng ngày để theo dõi tin tức chiến trường. Người ta lo âu, thì thầm vì biết thế nào Pháp cũng thua, Việt Minh sẽ thắng. Người có gia đình theo kháng chiến thì vui mừng, hồi hộp. Một hôm, ông bác ruột, anh mẹ tôi từ phố Hàng Buồm đến chơi, đưa tờ báo cho mẹ tôi coi rồi chỉ tay vào một tấm hình lớn ngay trang nhất và nói: “Em chồng cô bây giờ làm lớn lắm!” Thì ra đó là tấm hình chụp ông Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đại biểu VNDCCH tại hội nghị Geneve về Đông Dương 1954. Đứng cạnh trưởng đoàn Phạm Văn Đồng là chú tôi, Lê Phú Cường (tức tướng Lê Hữu Qua sau này). Sau này tôi mới biết là chú Hai tôi là nhân viên an ninh của phái đoàn Việt Nam tại Geneva, có nhiệm vụ bảo vệ đoàn và trưởng đoàn. Đây là lý do chú tôi thường hay xuất hiện bên cạnh ông Phạm Văn Đồng. Vì thế mọi người cứ tưởng chú tôi làm lớn lắm. Lúc đó mới 12 tuổi đầu, tôi không hình dung ra cái gì sẽ đến với gia đình tôi và Hà Nội. Thế nhưng, cái gì đến đã đến. Ngày 10/10/1954, ngày giả phóng thủ đô thật đáng ghi nhớ. Mẹ tôi là một người buôn bán rất nhạy cảm nên trước đó bà mua tích trữ nhiều cán cờ bằng gỗ, bằng tre xếp đầy nhà. Ngày đó tung ra bán cho người ta làm cán cờ vẫy chào bộ đội về giải phóng thủ đô.
Tôi còn nhớ như in đêm mùng 9 rạng sáng 10/10 ấy cả thành phố giới nghiêm và không ai ngủ cả. Mấy chị em tôi dán mắt nhìn qua khe cửa. Trong ánh sáng vàng đục của những ngọn đèn đêm, tôi thấy những tên lính Pháp cao lớn đi tuần. Gần sáng, lính Pháp chốt lại các đầu phố. Nhà tôi ở số 3B phố Hàm Long, tức đầu phố nhìn ra ngã năm Phan Chu Trinh, Hàm Long, Lê Văn Hưu, Lò Đúc, Hàn Thuyên rõ mồn một. Lính Pháp tụ lại ở đầu phố. Khi trời sáng hẳn thì từng tốp bộ đội của ta vai đeo súng từ từ tiến đến chỗ lính Pháp. Những tên lính Tây cao lêu nghêu đứng cạnh bộ đội Việt Minh bé nhỏ chỉ cao đến vai chúng. Họ trao đổi với nhau, bàn giao với nhau những điều gì đó rồi thấy lính Pháp từ từ rút lên phía nhà hát lớn theo đường Phan Chu Trinh. Khi lính Pháp rút rồi, chỉ còn lại bộ đội ta thì tất cả các cánh của bật tung, nhân dân hai bên phố ùa ra đường với cờ đỏ trong tay reo mừng hoan hô các anh bộ đội. (Dĩ nhiên các cán cờ là của mẹ tôi bán cho họ). Nếu tôi không ghi lại cái sự việc có thật này về cái đêm mùng 9/10 năm đó, thì sau này các sử gia, các nhà tiểu thuyết lịch sử khó hình dung người Hà Nội làm gì, nghĩ gì, đường phố Hà Nội diễn ra điều gì trong cái giờ phút lịch sử đó. Bởi lẽ, những người Hà Nội chứng kiến lúc quân Pháp rút lui lúc rạng sáng ngày hôm đó chắc không còn mấy người và cũng chẳng ai làm cái việc lẩn thẩn là ngồi ghi chép lại những sự việc đó trong khi mọi người đang điên rồ kiếm tiền, cố tồn tại trong cái nền kinh tế thị trường định hướng XHCN này! Cũng cần phải nói thêm là, trước ngày 10/10/1954 cả mấy tháng, đã có các cán bộ Việt Minh vào thành phố, tá túc trong các nhà dân vốn là cơ sở của Việt Minh hay các gia đình có người đi kháng chiến. Nhà tôi cũng có một chị tên là Nhân đến ở. Họ có nhiệm vụ giải thích chính sách của chính phủ kháng chiến, khuyên đồng bào không theo Pháp đi Hải Phòng…
Chị Nhân có chồng là cán bộ hoạt động nội thành rất đẹp trai tên là Hồng Kỳ. Mẹ tô đã xếp cho họ ở một căn buồng nhỏ sau bếp nhà và đứa con đầu lòng của họ đã “nên người” ở căn buồng đó. Sau này họ vẫn đi lại thăm gia đình tôi.
Lại nói về ngày 10/10 lịch sử, cho đến 10 h sáng hôm đó thì cả Hà Nội là một ngày hội lớn. Năm cửa ô Hà Nội tưng bừng đón những đoàn quân chiến thắng trở về. Các nghệ sỹ đem cả đàn ra kéo, các chị mặc áo dài, các bà nhà giàu tung hoa tươi lên các đoàn xe trở các đoàn quân tiến vào thành phố. Có những câu chuyện thật cảm động mà tôi biết. Bà cụ Lý Tiếp, người làng Đồng Nhân, quê ngoại của tôi. Cụ có họ xa với mẹ tôi. Cụ sinh sống bằng nghề bán nước mắm rong trên đường phố. Hôm đó có người bảo với bà rằng, con bà là cán bộ chỉ huy cao cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nếu tôi nhớ không nhầm là đại đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng gì đó… có người làng đã trông thấy con trai bà trên phim tài liệu về Điện Biên khi còn ở vùng tự do. Người cán bộ vô thành kiểu như chị Nhân tôi kể ở trên đã cho bà biết tin như thế. Nhưng bà cụ không tin nên sáng ngày 10/10 bà vẫn đi bán nước mắm. Khi đoàn quân tiến vào thủ đô, bà cụ Tiếp vẫn đòn gánh trên vai chen vào đoàn người đứng hai bên đường tại một cửa ô. Bỗng nhiên bà trông thấy con trai mình ngồi trên xe jeep dẫn đầu đoàn quân. Bà lao ra… hai mẹ con đã ôm lấy nhau… và mọi người đều khóc. Người chỉ huy đó sau này là thiếu tướng Vũ Yên. Tên cúng cơm của ông là Nguyễn Văn Tịch. Mẹ tôi nói ông là người làng của bà. Khi viết những dòng này, tôi cũng cảm động rơi nước mắt khi ngòi bút “chạy” tới đây. Lịch sử đất nước có những giờ phút đáng ghi nhớ như thế. Nhưng, người ta có hay đâu những người hồ hởi mang hoa ném lên những đoàn xe trở đoàn quân chiến thắng kia, chỉ ít lâu sau là nạn nhân của những cuộc cải tạo tư sản. Ở nông thôn là cải cách ruộng đất đẫm máu.
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc “đấu tranh giai cấp”, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm”. Nhà văn Nguyễn Khải đã miêu tả rất đúng chân dung của con người Việt Nam từ thành thị đến nông thôn sau chiến thắng Điện Biên trong bài tùy bút chính trị “ Đi tìm cái tôi đã mất”. Ông viết: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn. Từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối nếu họ không muốn dẫm vào vết chân của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng lom rom như một kẻ bại trận”. Viết đến đây tôi chợt nhớ có lần đọc được bài viết của một phóng viên người Pháp nhiều năm sống ở Trung Quốc. Khi quân giải phóng nhân dân Trung Hoa vượt sông Trường Giang đuổi quân Tưởng Giới Thạch khỏi lục địa, thu Trung Quốc về một mối, tác giả đã từ Hồng Kông qua lục địa và chứng kiến cảnh nhân dân vui mừng chào đón một tương lai tốt đẹp như thế nào. Sau đó tác giả hạ một câu, đại ý, nếu các nhà lãnh đạo Trung Quốc không tiếp tục công cuộc “đấu tranh giai cấp” sau đó thì nước Trung Hoa đã không khốn nạn như ngày nay.
Việt Nam chẳng khác gì Trung Quốc, hay nói cách khác là giống nhau như hai giọt nước. “Đấu tranh giai cấp” đã tàn phá tất cả những gì tốt đẹp mà nhân dân Việt Nam đã đổ xương máu để giành được cho đến ngày chiến thắng Điện Biên Phủ.
Cải cách ruộng đất đã đưa những ông bà nông dân mắt toét răng đen không biết chữ lên làm chánh án những “tòa án nhân dân”, có quyền phán quyết án tử hình và nạn nhân bị đem bắn ngay sau đó. Những thước phim tư liệu do chính quyền quay mà tôi đã được xem, mỗi lần nhớ đến vẫn khiến tôi lạnh xương sống. Tên địa chủ được lôi ra đấu tố, ra xét xử đi giữa hai du kích đi chân đất và cầm súng chĩa vào mình.Và, tên địa chủ ấy cứ run cầm cập khi nhìn thấy cái cọc tre đã được đóng sẵn để lát nữa trói mình vào đó để xử bắn! Chưa cần xử, nạn nhân đã biết trước hình phạt dành cho mình. Xem những thước phim cho thấy, chỉ sau vài loạt hô đả đảo của quần chúng đang điên rồ trong cơn phấn kích là “phạm nhân” đã bị trói nghiến vào cái cột tre, rồi sau loạt súng nổ, người ta bu lại để xem tên “phạm nhân” nghẹo cổ. Đạn xuyên thẳng vào tim. Cả xã hội miền Bắc đã lên cơn nhập đồng cuồng điên trong cuộc đấu tố bắn giết kéo dài đó. Thật khó có thể giải thích những người nông dân nghèo khổ, hiền lành, nhẫn nhục, sống với nhau bao đời trong các làng quê được bao bọc bởi những lũy tre xanh hiền hòa kia… bỗng có ngày họ bị Đảng Cộng sản cho uống thuốc kích độc, kích ác, kích bạo, kích tham… những độc dược dán mác “đấu tranh giai cấp” hay “Mác-Lenin”… để một chị con gái có thể nhẩy chồm lên chỉ vào mặt bố đẻ của mình mà hét: Thằng kia, mày có biết tao là ai không? Và người cha đẻ của chị khúm núm run rẩy thưa: Thưa bà, bà là con của con ạ!!!
Ở Đồ Sơn quê vợ tôi có câu chuyện thương tâm thế này. Một phú nông trong làng, từng chứa chấp Việt Minh hoạt động. Một hôm, có 5-6 cán bộ đang họp trong nhà thì có tin Tây đến vây bố. Chủ nhà nhanh trí hô tất cả trèo lên mái nhà rỡ mái xuống (xem như đang sửa nhà). Thấy cảnh nhà cửa ngổn ngang, mái nhà bị rỡ tung, chúng tin là nhà đang sửa nên có đông thợ đến làm liền rút lui. Thế nhưng, thật trớ trêu ông chủ nhà sau này bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, bị bức cung ông phẫn uất quá cho gọi tất cả các con cái về nhà, dồn vào một buồng rồi tưới xăng để tự thiêu. Chị con gái đã có chồng, có con, quỳ lạy cha xin tha chết để còn sống nuôi con. Nghĩ thương cháu, người ông tha cho con gái sau đó châm lửa thiêu cả nhà. Khi mọi người biết chuyện chạy đến thì những đứa trẻ đã chết đen thui còn xác người vợ trương phồng lên như con bò! Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất(CCRĐ) “long trời lở đất” ở miền Bắc lúc đó đã xử bắn hàng chục ngàn người, đa phần là những người có công với kháng chiến, những phần tử ưu tú nhất ở nông thôn Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Phương mẹ của tác giả.
Cuộc CCRĐ, cải tạo tư sản ở miền Bắc đã triệt tiêu những người lao động có năng lực nhất ở cả nông thân lẫn thành thị. Những người có tay nghề cao, có kinh nghiệm quản lý, biết tổ chức sản xuất và kinh doanh. Gia sản của họ bị trưng thu, trưng mua, tịch thu kiểu ăn cướp còn bản thân họ thì bị bắn chết trong CCRĐ, bị bạc đãi ở thành thị. Xã hội ngày ấy bị kéo lùi lại thời trung cổ! Có nhà thơ của nhóm Nhân văn đã khái quát:
“ Tôi đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ”
Vậy mà sau chiến thắng 1975, miền Nam lại bị cải tạo tư sản. Một ông chủ xe đò (xe chở khách) ở Mỹ Tho nói với tôi: Khi các ông Việt cộng đến nhà tịch thu mấy cái xe đò của tôi để đưa vô công tư hợp doanh… thì tôi đã biết là các ông ấy sẽ thất bại rồi. Tôi hỏi ông chủ nọ: Vì sao bác biết trước là sẽ thất bại? Ông trả lời: Họ chỉ lấy đi cái xe, còn phụ tùng, đồ sửa xe tôi để dưới gầm giường thì không ai lấy đi cả. Tôi biết ngay là những ông này chưa bao giờ sử dụng xe ô tô cả. Y như rằng, sau này xe nát, kinh doanh thua lỗ, phá sản… Sau ngày đổi mới, xe lại về tay tôi. Tôi lại là chủ xe như bây giờ…
Những người cầm súng giành chiến thắng trong đấu tranh bạo lực sau đó được làm chủ, được chỉ huy nhưng không có nghề ngỗng gì thì làm nát bét kinh tế đất nước như đã thấy. Muốn thành một ông chủ thì ít nhất phải trải qua kinh nghiệm, có mấy đời cha ông làm nghề đó chưa kể phải tích lũy tiền bạc, kinh nghiệm quản lý, trau dồi tay nghề… rồi truyền lại cho con cháu. Thế mà, đùng một cái cải tạo, gia sản giao cho mấy anh chân đất mắt toét vừa ở rừng ra quản lý và chỉ huy thì sự thể ra là như thế. Bi kịch của cuộc cách mạng vô sản, cách mạng công nông là như thế.
Tôi nhớ ngày giải phóng miền Nam, sau này ông Võ Văn Kiệt đề nghị gọi là ngày “thống nhất đất nước”. Nhiều chuyện khôi hài xảy ra ở những đầu tiếp quản. Có anh bộ đội miền Bắc, chưa một lần được được biết thành phố, anh ta theo đoàn quân chiến thắng vào thẳng Sài Gòn. Vô nhà vệ sinh anh nhìn thấy cái bồn cầu bằng sứ trắng lốp, lại có nước ở bên dưới bèn ra chợ mua cá lóc thả vào. Một lát không thấy cá đâu, anh kêu ầm lên là có ai lấy cắp cá của anh… anh không hề biết đó là cái hố xí vì xưa nay anh sống ở nông thôn miền Bắc, chưa thấy nó bao giờ. Một anh nông dân “chất phác” như thế mà giao cho làm cán bộ chỉ huy ở thành phố sau này thì bi kịch sẽ tiếp nối hài kịch là đương nhiên!
Nguồn: http://vanviet.info/van/hoi-k-l-ph-khai-loi-ai-dieu-ky-2/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét