Bán, bán nữa cho đến lúc chẳng còn gì để bán!
Cùng trong tháng 8/2016, hai thông tin kinh tế hoàn toàn “phản nghịch” nhau là Ngân hàng nhà nước báo cáo về quỹ dự trữ ngoại hối tăng thêm 10 tỷ USD – tức đến 40 tỷ đôla, trong lúc Chính phủ buộc phải bán “12 ông lớn” để thu về khoảng 7 tỷ đôla nhằm trám vào vực thẳm hun hút của ngân sách quốc gia.
Thủ tướng Phúc vẫn phận sự ‘cấp phó’
Một nghịch lý từ nạn “cha chung không ai khóc” cho đến cảnh bùng nổ bán tống bán tháo. Trước đây vài chục năm, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn ra vô cùng ậm ạch với đủ thứ lý do được nại ra, trong đó một nguyên do rất khó nói là đảng không muốn tự làm mất đi “vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh”, còn nhiều quan chức giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũng chẳng muốn phải chia chác quyền lực điều hành và lợi ích với các nhóm kinh tế tư nhân.
Nhưng đặc biệt từ thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2006, tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước dần gia tăng. Đó cũng là thời gian mà nhiều nhóm lợi ích – kết cấu giữa loại tư nhân con ông cháu cha với giới quan chức thường bị coi là “tham nhũng chính sách” – mặc sức hoành hành trên mặt trận cạnh tranh vô chính phủ và thâu tóm theo kiểu luật rừng. Kết quả 9 năm của “triều đại Nguyễn Tấn Dũng” là trong khi 2/3 doanh nghiệp nhà nước làm ăn bết bát và bị rút đến rỗng ruột như Vinashin và Vinalines, chỉ có những doanh nghiệp công – tư lẫn lộn nằm trong guồng máy nhóm lợi ích mới trở nên giàu nứt đố đổ vách.
Nhưng trái lại, ngân sách quốc gia và do đó là tiền đóng thuế của dân bị coi là “bị phá chưa từng có”.
Để ngay trước Đại hội XII và như một động tác lập thành tích chạy đua vào ghế tổng bí thư, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát pháo hiệu mà từ đó tốc độ bán vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp lớn bất thần tăng vọt.
Và nếu thời điểm cuối năm 2015 chứng kiến Thủ tướng Dũng báo cáo sẽ bán cổ phần tại những doanh nghiệp nhà nước, kể cả “con bò sữa” như Vinamilk để “bù đắp khó khăn ngân sách” trong bối cảnh “ngân sách trung ương chỉ còn 45.000 tỷ đồng mà không biết chi cho cái gì”, nay Thủ tướng Phúc đang tiếp tục “kiến tạo” những gì mà ông Nguyễn Tấn Dũng ấp ủ chưa thành hình trước đó.
Giờ đây, ngân sách không chỉ “khó khăn”, mà là nguy ngập!
Quả là ông Nguyễn Xuân Phúc vẫn tiếp tục làm tròn phận sự “cấp phó” cho thủ tướng đã nghỉ hưu Nguyễn Tấn Dũng, như đã từng tỏ ra ngoan ngoãn trong dĩ vãng phó thủ tướng. Cả một thời lên ngôi của ông Dũng đã thải ra vô số hậu quả và di hại mà giờ đây ông Phúc buộc phải lãnh nhận và “xử lý”, nếu còn muốn “đảng lãnh đạo toàn diện” cho ngồi ở ghế thủ tướng.
Không còn cách nào khác, tại cuộc họp với các bộ ngành về chủ trương bán vốn nhà nước tại doanh nghiệp được Chính phủ tổ chức vào tháng 8/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải chỉ đạo tiếp tục bán vốn tại hàng loạt doanh nghiệp khủng như Tổng công ty CP Bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Tổng công ty CP Bia rượu nước giải khát Hà Nội (Habeco) và bán cổ phần của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) tại 10 doanh nghiệp như Công ty CP Sữa VN (Vinamilk), Tổng công ty CP Bảo Minh, Tổng công ty CP Tái bảo hiểm quốc gia VN, Công ty CP nhựa Thiếu Niên Tiền Phong, Công ty CP FPT, Công ty CP viễn thông FPT…
7 tỷ đôla xài được bao lâu?
Cuộc cách mạng bán tháo vốn nhà nước đã diễn ra ngay vào đầu năm 2016, để đến giữa năm phía chính phủ “xông xênh” bước ra trước Quốc hội với món tiền bán vốn được 10.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, chừng đó vẫn là quá ít so với túi thủng ngân sách.
Trong khi kế hoạch bán đường, bán cảng, bán sân bay… mà Thủ tướng Dũng chỉ đạo các bộ ngành “nghiên cứu thực hiện” từ năm 2015 vẫn chưa đâu vào đâu, đơn giản là vì chưa có ai mua, thì việc Thủ tướng Phúc rút tiền từ cổ phần nhà nước trong các doanh nghiệp lớn là chóng vánh và thuận lợi nhất.
Một chuyên gia ngành tài chính ước tính, nếu bán hết vốn nhà nước tại 10 công ty thuộc SCIC cùng Habeco, Sabeco, Nhà nước có thể thu được tới 7 tỷ USD (khoảng 150.000 tỉ đồng).
Con số 150.000 tỷ đồng trên, bằng khoảng 13% chi ngân sách năm 2016, là một số tiền lớn và đáng kể trong bối cảnh đảng không biết lấy tiền đâu để chi xài sau những vụ suýt nữa vỡ nợ của các thành ủy Cà Mau và tỉnh ủy Bạc Liêu, để sang năm 2016 còn nghe nói đảng đã phải dùng đến “quỹ đen” (một loại quỹ dự phòng trong đảng) và đang phải tìm cách “nhất thể hóa” giữa một số cơ quan đảng với cơ quan chính quyền để tiết giảm nguồn chi ngân sách.
Số tiền 150.000 tỷ đồng trên, ngay trước mắt sẽ bù đắp cho khoản bội chi ngân sách năm 2016 có thể lên đến 150.000 tỷ đồng hoặc hơn.
Thế nhưng 150.000 tỷ đồng cũng chỉ đủ để chi ngân sách khoảng 1,5 tháng. Câu hỏi đặt ra là sau khi bán sạch những cổ phần ngon ăn và màu mỡ nhất tại các doanh nghiệp, chính quyền Việt Nam còn gì để bán?
Bán, bán nữa cho đến lúc chẳng còn gì để bán!
Một câu hỏi khác: Tại sao Chính phủ không chỉ đạo cho Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước cắt ra chỉ cần một nửa lượng dự trữ ngoại hối – khoảng 20 tỷ USD – là có ngay một lượng ngoại tệ lớn để chi dùng cho ngân sách và kéo dài thêm sự tồn tại của rất nhiều viên chức đảng?
Nếu cách đây chừng 5 năm và đặc biệt dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, kế sách ấy là dễ như thò tay vào túi, thì nay dưới chế độ của Thủ tướng Phúc, ưu tiên trả nợ nước ngoài và cả nợ trong nước mới là phương sách tối thượng nhằm tránh một sự sụp đổ kinh tế và cả chính trị. Trong năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã phải trả đến 20 tỷ USD nợ đến hạn cho các chủ nợ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)… Còn năm 2016, phần trả nợ nước ngoài cũng phải lên đến ít nhất 12 tỷ USD. Chính vì thế, nếu ông Phúc chỉ đạo cắt quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam để chi xài cho lương công chức viên chức và cái gọi là “đầu tư phát triển” đầy rẫy lãng phí và tham nhũng thì rất có thể sẽ chẳng còn gì để dùng trả nợ quốc tế.
Mới đây, một chuyên gia kinh tế là bà Phạm Chi Lan đã phải thốt lên rằng các nguồn lực đã cạn kiệt. Vậy lấy gì để bảo đảm cho “kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn 2016 – 2020”?
Cho đến nay, bản vẽ tạo ra “nguồn lực” bằng phát hành 3 tỷ trái phiếu đặc biệt ra thị trường quốc tế được tung hô dưới thời Nguyễn Tấn Dũng đã hầu như thất bại. Tương tự cảnh không một đối tác quốc tế nào chịu mua nợ xấu của Việt Nam, cũng chẳng có tập đoàn tài chính nước ngoài nào ngó ngàng đến “giấy lộn” được gọi là trái phiếu đặc biệt.
Không chỉ bà Phạm Chi Lan, mà một số chuyên gia gần gũi nhà nước cũng tình thật về tình trạng cạn kiệt nguồn lực ở Việt Nam. Chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc cũng bởi thế đang phải đối mặt với một tương lai cực kỳ nan giải: tìm đâu ra “nguồn lực” để bán vào năm 2017 và đặc biệt vào năm 2018, để ngân sách không bị vỡ nợ?
Không thể khác được, vào thời gian gần đây, Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính không chỉ tiếp tục đẩy mạnh vay mượn quỹ Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm y tế, mà một lần nữa phải “nhìn trộm túi quần dân chúng”: 500 tấn vàng vẫn còn rải rác trong dân, làm thế nào tung “chứng chỉ vàng” để thu gom tất cả, lấy vàng chi xài cho ngân sách và đổi sang ngoại tệ để trả nợ nước ngoài, còn phần trả vàng cho dân chúng thì để các chế độ sau gánh!
Sau sự thất thủ của cổ phần nhà nước tại nhiều doanh nghiệp lớn, lẽ đương nhiên những doanh nghiệp này sẽ rơi vào tay các tập đoàn lớn, trong đó hẳn có mặt nhiều kẻ con ông cháu cha và nhóm quan chức “tham nhũng chính sách”. Nhưng đó rất có thể là những “con bò sữa” cuối cùng mà Chính phủ còn để bán.
Bán, bán nữa cho đến lúc chẳng còn gì để bán!
* Blog của nhà báo Phạm Chí Dũng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
VOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét