Ukraine – Châu chấu đá xe (phần 1)
Dũng Vũ lược thuật
(Phần 1)
Ngày 24.02.2022, quân đội Nga xâm lược Ukraine. Toàn thế giới bất ngờ nhìn thấy đất nước Ukraine tan hoang. Nạn nhân chính là thường dân. Khắp nơi, quân Nga đã bắn phá, thả bom bừa bãi vào nhà dân, bệnh viện, trường học, vườn trẻ. Đường sá, cầu cống, điện nước cũng bị tàn phá. Phụ nữ bị lính Nga hãm hiếp, thường dân bị sát hại nằm la liệt trên đường phố hay bị vùi lấp tạm bợ dưới những mồ chôn tập thể. Hàng triệu người Ukraine phải chạy lánh nạn khắp Âu châu.
Nhà dân bị trúng đạn pháo kích của Nga tại Kyiv ngày 14.03.2022. Ảnh: Wikipedia / CC BY 4.0
Vì sao một đất nước yếu đuối, hiền hòa như Ukraine lại bị một đội quân Nga hùng mạnh có vũ khí tối tân và vũ khí nguyên tử ngang nhiên xâm lược?
Tổng thống Putin của Nga biện luận: Nga phải tiến hành một "chiến dịch quân sự đặc biệt":
1. để loại trừ quân Quốc xã Ukraine đang đàn áp người nói tiếng Nga và diệt chủng dân Nga tại vùng Donbass, đặc biệt là bảo vệ các nước Cộng hòa Nhân dân tự xưng Luhansk và Donetsk nơi có nhiều dân Nga và người nói tiếng Nga sinh sống;
2. để giải trừ một chính phủ Quốc xã, tay sai Tây phương;
3. để giải giới Ukraine đang làm chủ "vũ khí hủy diệt hàng loạt" và muốn chế tạo vũ khí nguyên tử;
4. để lập lại một "nước Nga mới" như thời đế chế Sa hoàng vì Ukraine vốn thuộc về Nga, chỉ là những "người Nga nhỏ" chưa bao giờ có nhà nước hoặc quốc gia;
5. mặt khác phải bảo vệ nước Nga vì Tây phương muốn kết nạp Ukraine vào NATO, tiếp tục mở rộng về phía Đông để tiêu diệt Nga.
Đó là những lý do chính để Putin xua quân xâm lược Ukraine, vi phạm chủ quyền nước láng giềng, bất chấp luật pháp quốc tế. Thế nhưng những lý lẽ của Putin có phải là sự thật hay chỉ là sự giả dối hoặc những ý nghĩ vĩ cuồng?
Để hiểu câu chuyện chúng ta hãy tìm hiểu sơ về lịch sử Ukraine.
oOo
Nước Ukraine
Nước Ukraine ngày nay từng là thuộc địa của hơn 10 nước, đặc biệt là Vương quốc Ba Lan-Litva, Đế chế Nga, triều quân chủ Habsburg (Áo) và Liên Xô. Vì thế mà Ukraine thường không được hiểu là một quốc gia có nguồn gốc và phát triển một cách độc lập liên tục, chẳng hạn như Pháp. Tuy nhiên không chỉ Ukraine mà nhiều quốc gia khác cũng thế, ví dụ như Ý, Đức và cả Việt Nam.
Suốt lịch sử xây dựng đất nước, người Ukraine đã bị nhiều quốc gia có thế lực làm khó dễ, đặc biệt là Ba Lan và Nga, từ xưa cho đến nay ít nhiều đã phủ nhận sự tồn tại của "quốc gia Ukraine". Đối với sử học tựa vậy: việc mô tả về Ukraine luôn luôn bị thách thức bởi những cách diễn giải khác biệt về lịch sử Ukraine từ phía Ba Lan và Nga.
Cái tên Ukraine có nghĩa là "vùng biên giới"; biên giới giữa những vùng thảo nguyên mênh mông, biên giới giữa người bản xứ và dân du mục. Đây là nơi sinh sống của người Cossack được ví như tiền nhân của nguời Ukraine. Theo cách hiểu hiện đại, Ukraine đã xuất hiện như một vùng đất giao thoa giữa Đông và Tây, giữa Chính Thống Giáo và thế giới Công Giáo La Mã. Nhà thờ St. Sophia ở Kyiv với những bức tranh khảm Byzantine bên trong và phong cách Baroque bên ngoài đã nói lên ý nghĩa này.
Nhà thờ St. Sophia ở Kyiv Federica Leone / https://whc.unesco.org
95% lãnh thổ Ukraine là vùng đồng bằng của phía Đông Âu châu dường như không có ranh giới tự nhiên ngoài bờ Biển Đen ở phía Nam và rặng Carpathians hiểm trở ở phía Tây. Phía Đông và Bắc giáp với Nga, Belarus và Ba Lan, gần như để mở. Chính vì thế mà đây là chốn giao lưu của giới lái buôn và đồng thời là bãi chiến trường của những cuộc xung đột đẫm máu.
Đất đai Ukraine chia thành nhiều vùng dựa vào thiên nhiên và lịch sử. Tây Ukraine có vùng Galicia, Bắc Bukovina và Carpathian-Ukraine. Volhynia, Podolia và vùng giữa Dnepr bao gồm thủ đô Kyiv, trung tâm Ukraine. Nam Ukraine là Bắc Biển Đen có hải cảng Odessa và bán đảo Crimea. Các vùng nhỏ miền Đông Ukraine là Donbass (Donetsk), Sloboda Ukraine (Kharkiv) và vùng hạ lưu Dnieper (Dnipropetrovsk). Những con sông khá quan trọng, nhất là sông Dnepr, chia cắt Ukraine. Từ đầu thời trung cổ, nó đã là một "con đường thương mại" tấp nập chạy từ Baltic xuống Biển Đen băng qua thành phố Kyiv.
Hầu hết mọi miền đều có đất đen màu mỡ, rất tốt cho những loại cây lương thực (lúa mì, bắp, hoa hướng dương). Khí hậu ôn đới cũng góp phần mặc dù vùng thảo nguyên tương đối ít mưa. Tài nguyên dồi dào nhất là những mỏ than ở lưu vực Donets (Donbass) và mỏ sắt ở hạ lưu Dnepr. Vì lý do này Đế chế Nga đã muốn biến nơi này thành khu kỹ nghệ.
Đế chế Kyivan Rus: tiền thân của nước Ukraine
Vào thời xa xưa, miền Nam Ukraine ngày nay là nơi các dân tộc thảo nguyên từ Á châu di cư sang Âu châu sinh sống. Dọc bờ Biển Đen, người Hy Lạp và người La Mã đã thiết lập những vùng thuộc địa của mình. (Nghĩa là ngay từ đầu, Ukraine đã là vùng đất đa dân tộc). Cuối thế kỷ thứ 9, các chiến binh Norman và lái buôn người Rus đã thành lập bên sông Dnepr một "tập đoàn thống trị" được đặt tên theo họ Rus và lấy Kyiv làm kinh đô. Đế chế Kyiv là một trung tâm thương mại. Văn hóa Chính Thống Giáo (hội họa, văn chương, kiến trúc) đã trải qua một thời hưng thịnh với tu viện "Đức Mẹ Thăng Thiên" Kyiv nổi tiếng.
Người Rus là một tập thể lỏng lẻo gồm nhiều công tước dưới triều đại Ryurikid, đứng đầu là hoàng tử Kyiv. Trong nửa đầu thế kỷ 13, toàn lãnh thổ Rus bị quân Mông Cổ "Kim Trướng hãn quốc" (Goldene Horde) chiếm đóng, nhiều thành phố bị thiêu hủy. Kyiv thất thủ vào năm 1240.
Lãnh thổ Kyivan Rus là những gì ngày nay gọi là Ukraine, Nga và Belarus (Belarus). Lịch sử Kyivan Rus được coi như huyền thoại đã khai sinh ba nhà nước ấy. Ukraine và Nga vẫn tranh giành nhau cái di sản chung ấy cho đến tận bây giờ. Tự sự quốc gia Ukraine thì nói "Kyiv thuộc về Ukraine" và là "thực thể nhà nuớc" thời sơ khai của Kyiv. Nhưng tự sự Nga thì nói ngược: đế chế Kyiv là tiền thân của đế chế Nga và nhà nước Moscow, nghĩa là Kyiv thuộc về Nga chứ chẳng phải thuộc về Ukraine. Nói cách khác, trong khi Ukraine chủ yếu khẳng định các lý lẽ về lãnh thổ và coi mình là nguồn gốc của Nga, thì phía Nga chủ yếu đề cập đến thực tế rằng các sa hoàng Nga cho đến cuối thế kỷ 16 cũng là hậu duệ trực tiếp của Kyiv Ryurikid.
Sự cãi cọ lại bùng lên trong những năm gần đây và Tổng thống Nga Putin cũng lên tiếng. (Vấn đề bất đồng ý kiến về dân tộc là một trong những yếu tố dẫn đến cuộc chiến xâm lược Ukraine mà Putin đang tiến hành, với luận điệu như thể Ukraine vốn thuộc về Nga và bây giờ phải đem quân lấy lại). Tóm lại, lịch sử đã ghi chép người Rus là tổ tiên của người Ukraine. Và người Nga cũng giành phần "Rus là tổ tiên của mình".
Ukraine: thuộc địa của Vương quốc Ba Lan-Litva thế kỷ 14-18
Sau khi Kyivan Rus bị người Mông Cổ chinh phục, người Rus chia thành 3 nhóm sắc tộc: Nga, Ukraine và Belarus. Trong khi người Nga vẫn bị người Mông Cổ cai trị, thì người Ukraine và người Belarus trở thành thần dân của xứ Litva và Ba Lan. Vào thế kỷ 14, các Đại công tước của Litva lãnh quyền thừa kế Kyivan Rus và cai quản hầu hết lãnh thổ Ukraine bao gồm cả Kyiv. Hai thế kỷ sau, toàn thể Ukraine được hợp nhất vào Vương quốc Ba Lan.
Ba bốn thế kỷ kế tiếp, mọi nơi có người Ukraine sinh sống đều thuộc về Ba Lan-Litva. Vào lúc này Ukraine chịu ảnh hưởng của Tây phương qua trung gian Ba Lan. Nhà tư tưởng chính trị người Ukraine Mykhailo Drahomanov (1841–1895) đã viết: "Hầu hết sự khác biệt về quốc gia giữa Ukraine và Đại công quốc Moscow có thể giải thích được theo thực tế là cho đến thế kỷ 18, tức là lúc Nga bắt đầu cai trị Ukraine, thì Ukraine đã gắn bó với Tây Âu nhiều hơn là với Nga". Những ý kiến như vậy là bằng chứng được lấy làm lý do cho việc tái ký kết với EU hôm nay. Nói ngắn gọn, trong lịch sử, miền Tây và trung tâm Ukraine bị Litva và Ba Lan đô hộ lâu hơn Nga nhiều.
Người Cossack Ukraine
Vào thế kỷ 16, khi xảy ra xung đột với người Tatars ở Crimea, quân đội Cossack đã ra đời từ những nhà nông và những nhà thám hiểm đang trốn chạy. Phần lớn các nhóm chiến binh nằm ngoài vòng kiểm soát của nhà vua và giới quý tộc. Họ tự tổ chức một nề nếp "quân sự-dân chủ" riêng theo "chủ nghĩa bình đẳng". Những phe nhóm và hội đồng người Cossack bầu ra người lãnh đạo: Hetman hoặc Ataman. Người Cossack phục vụ vua Ba Lan với tư cách là lính biên phòng và lính đánh thuê, đồng thời tổ chức những cuộc đột kích chống lại người Ottoman Hồi Giáo. Năm 1648 quân Cossack dưới sự lãnh đạo của Hetman Bohdan Khmelnytskyi (1595-1657) đã khởi xướng một phong trào quần chúng chống lại ách thống trị của Ba Lan. Quân Cossack đã giải phóng gần hết Ukraine và thiết lập một tập đoàn thống trị độc lập gọi là Hetmanate có chính quyền quân sự riêng theo mô hình Cossack; nông dân được tuyên bố là người Cossack tự do; giáo hội Chính Thống Giáo được hưởng nhiều đặc quyền.
Huy hiệu Hetman người Cossack Ảnh: Wikimedia CC-BY-SA-3.0
Suốt cuộc chiến giành độc lập chống lại Ba Lan (1654), Khmelnytskyi và Zaporozhian Cossacks đã đứng về phía Nga và được Sa hoàng giúp đỡ. Trong khi người Cossack coi Nga như một "ân nhân" tạm thời giúp đỡ mình thì Sa hoàng Nga lại coi đó là sự phục tùng Nga. Những cách diễn giải trái ngược nhau vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Bản tự sự quốc gia-Ukraine đã nhấn mạnh sự độc lập của Hetmanate, nghĩa là lãnh thổ dưới sự cai trị của người Cossack là quốc gia đầu tiên của Ukraine, nhưng theo tự sự của Nga , Nga coi thỏa thuận Pereiaslav đã ký kết với quân Cossacks vào năm 1654 là giai đoạn đầu trong việc "tái thống nhất" nước Nga từ cuộc xâm lăng của Mông Cổ đã tách rời Ukraine ra khỏi nước Nga.
Năm 1667, sau một cuộc chiến kéo dài, hai nhà nước Nga và Ba Lan-Litva đã chia cắt Ukraine: Phần Hetmanate ở tả ngạn Dnepr bao gồm Kyiv thuộc về Nga, phần kia ở hữu ngạn vẫn thuộc về Ba Lan.
Nửa đầu thế kỷ 18, Hetmanate mất dần quyền tự chủ và cuối cùng cũng bị Nữ sa hoàng Catherine II (người gốc Đức) giải tán. Huyền thoại Cossack ngày nay vẫn còn nhiều ảnh hưởng, cụ thể gần đây nhất là đối với cuộc "Cách Mạng Cam" Maidan (Kyiv). Quốc ca Ukraine kết thúc với điệp khúc: "Душу й тіло ми положим за нашу свободу, покажем, що ми, браття, козацького роду." ("Chúng tôi sẽ cống hiến linh hồn và thể xác vì tự do của mình, và chúng tôi sẽ chứng tỏ rằng chúng tôi, những người anh em, thuộc giống nòi Cossack").
Ukraine là thuộc địa của Đế chế Nga trong thế kỷ 19
Đế chế Nga trong thế kỷ 18 là một cường quốc đã không ngừng xâm chiếm các nước láng giềng yếu ớt theo chiến thuật "bóc vỏ cam". Qua ba lần chia cắt Ba Lan (1772, 1793, 1795), miền Tây Hetmanate ngày trước đã rơi vào tay Nga, trong khi vùng Galicia rơi vào tay Áo. Sau nhiều lần đánh nhau với Đế quốc Ottoman (Thổ), Nga chiếm được vùng thảo nguyên phía Bắc Biển Đen và Crimea. (Hiện tại, Crimea bị sáp nhập vào Nga kể từ năm 2014).
Bản đồ Crimea 2014 Ảnh: Wikipedia / Maximilian Dörrbecker (Chumwa)
Crimea là một bán đảo nằm ở cực Nam Ukraine giữa Biển Đen và Azov: Từ thời cổ đại người Tauri và Cimmeria đã có mặt tại đây. Sau khi Hy Lạp chiếm vùng Biển Đen làm thuộc địa, người Scythia cũng di cư tới nơi này. Lần lượt Crimea thuộc quyền cai trị của Đế quốc La Mã (63 TCN–341), người Goth (250), người Huns (376), người Bulgars (thế kỷ 4-8), người Khazars (thế kỷ 8). Đến thời trung cổ thì có Đế quốc Byzantine, Kievan Rus, Trebizond , Venetians, Genovese.
Vào giữa thế kỷ 10, miền Đông Crimea bị Hoàng tử Sviatoslav I của đế chế Kyiv chinh phục và trở thành một phần của công quốc Tmutarakan thuộc Kievan Rus (tiền thân Ukraine). Kievan Rus đã giành được bán đảo này từ tay người Byzantine. (Như vậy, Crimea đã từng thuộc về Ukraine).
Đến đầu thế kỷ 13, quân Mông Cổ "Kim Trướng hãn quốc" (Goldene Horde) đánh Kievan Rus. Đế chế Kyiv mất Crimea. Mùa Hè năm 1238, Batu Khan tàn phá bán đảo Crimea rồi tiến đánh Kyiv, năm 1240. Quân Mông Cổ chiếm đóng Crimea hai thế kỷ liền (1239-1441).
Tới thời Hãn quốc Krym (1443–1783), Crimea bị người Hồi giáo Tatar thống trị rồi cả người hồi giáo Ottoman và Cossack (tổ tiên người Ukraine). Thuở đầu người Tatar từ Crimea thường tấn công vào "Cánh đồng hoang" (Wild fields) miền Nam Ukraine để bắt nô lệ đem bán. Vào những năm 1553–1554, vị Hetman (Cossack) Dmytro Vyshnevetsky đã quy tụ nhiều nhóm Cossack tấn công người Tatar và người Thổ Ottoman. Năm 1774, Nữ sa hoàng Catherine II đánh bại Đế chế Ottoman, chiếm Crimea và sáp nhập vào Đế chế Nga vào năm 1783.
Sau chiến thắng của Hồng quân phe Bolshevik (của Lenin) trong cuộc nội chiến Nga (1917-1923) chống lại Bạch quân của phe Đế chế Nga cũ, Crimea bị sáp nhập vào Nga Xô (nước Cộng hòa Liên bang Xô viết Xã hội chủ nghĩa Nga) thuộc Liên bang Xô viết trong 5 năm. Thế chiến thứ hai bùng nổ, Đức chiếm Crimea. Năm 1944, Stalin cho Hồng quân tái chiếm bán đảo này và. Crimea mất quyền tự trị và trở thành một tỉnh của Nga Xô. Năm 1954, Khrushchev sáp nhập Crimea vào Cộng hòa Xô viết Ukraine. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Crimea vẫn thuộc về Ukraine. Tóm lại từ xa xưa trước khi người Nga tới bán đảo Crimea, nó đã từng thuộc về nhà nước Kyivan Rus, tiền thân của Ukraine.
Vùng Nam Ukraine, tên hành chính Nga gọi là "Nước Nga mới", truớc đó ít người ở từ từ trở thành chốn an cư lạc nghiệp của những người nông dân Ukraine và Nga cùng với giới "thực dân" từ Đức, Romania và miền Nam Slavs. Một số dân quý tộc là chủ nhân của nhiều vùng đất đai rộng lớn, có đầy tớ người Ukraine. Vùng đất màu mỡ miền Nam Ukraine là vựa lúa quan trọng nhất của Đế chế Nga, đã góp phần vào việc xuất cảng ngũ cốc. (Năm 2014 Putin đã hồi sinh cái tên "Novorussia" ("Nước Nga mới") nhằm tô điểm thêm cho các tuyên bố chủ quyền của Nga đối với miền Đông và miền Nam Ukraine).
Vùng Đông Nam Ukraine ngày nay chỉ mới phát triển vào cuối thế kỷ 19. Trên nền đất giàu mỏ than tại Donbass và mỏ sắt nằm giữa đoạn Dnepr, những khu kỹ nghệ mọc nhanh như nấm, đã trở thành động lực chính trong cuộc kỹ nghệ hóa của Sa hoàng Nga. Đất lành chim đậu, công nhân Nga đổ xô về khu kỹ nghệ này lập nghiệp. (Điều này cắt nghĩa tại sao khu phía Đông Ukraine có nhiều cư dân người Nga và Putin muốn chiếm lãnh vùng này). Kỹ nghệ tập trung tại đây nhưng hành chính và thương mại thì tập trung tại Kyiv. Nhiều tuyến đường sắt nối nhiều thành phố lớn và trung tâm nước Nga. Ba trong số 10 đại học của Đế chế Nga nằm ở Kharkiv, Kyiv và Odessa.
Miền Nam và miền Đông Ukraine với dân cư đa sắc tộc đã trải qua một cuộc đô thị hóa và hiện đại hóa nhanh chóng trong thế kỷ 19. Tuy nhiên quá trình hiện đại hóa Ukraine đã diễn ra hầu như không có người Ukraine phần lớn vẫn là những nông dân nghèo, chất phác. Khoảng 87% người Ukraine cuối thế kỷ 19 sống nhờ nghề nông. 68% nam giới trên mười tuổi không biết đọc và phụ nữ thậm chí là 95%. Đại đa số không có ruộng đất. Đất đai hầu hết nằm trong tay giới quý tộc người Nga, Ba Lan, Do Thái, Đức. Đất đai ngày càng bị thu hẹp khi kỹ nghệ mọc lên và dân số gia tăng từ sự nhập cư mà đa số là người Nga. Nhiều nông dân Ukraine không cạnh tranh nổi với người Nga phải bỏ xứ đi tới những vùng đất Nga xa xôi phía Á châu sinh sống.
Theo thống kê dân số năm 1897 tại những thành phố lớn, người Nga, Do Thái, Ba Lan chiếm đa số, người Ukraine chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: 26% ở Kharkiv, 22% ở Kyiv và 9% ở Odessa. Hầu hết người Ukraine tại thành thị thuộc giới lao động nghèo khổ; một số ít vươn lên được thường bị Nga hóa. Mặt khác phần lớn người Nga, Do Thái, Ba Lan đứng đầu bảng trong giới thượng lưu, quý tộc; người Nga gốc Ukraine đứng chót.
Người Nga nhỏ (1860–1917)
Chính quyền Nga và xã hội Nga không muốn "Người Nga nhỏ" (tức người Ukraine, như tên gọi chính thức) có một quốc gia riêng mà chỉ muốn họ là một phần tử thuộc về quốc gia "Chính Thống Giáo toàn Nga" bao gồm "người Nga lớn" (người Nga), "người Nga nhỏ" (người Ukraine) và "người Nga trắng" (người Bạch Nga (Belarus)). Tiếng Ukraine chỉ được xem như một phương ngữ Nga, lịch sử Ukraine chỉ là một phần của lịch sử Nga.
Năm 1863, nhà công luận Nga Mikhail Katkov (1818–1887) đã ngạo mạn khẳng định: "Ukraine chưa bao giờ có lịch sử riêng, chưa bao giờ có nhà nước riêng, dân tộc Ukraine luôn là một dân tộc thuần Nga. Nếu không phải vậy thì dân tộc Nga không thể như bây giờ".
Bất cứ phong trào dân tộc Ukraine nào vừa thành hình, chính phủ Nga đã thẳng tay ngăn chặn sự ly khai của "người Nga nhỏ" khỏi người Nga. Năm 1863 và 1876, hai sắc lệnh cấm phát hành các tác phẩm viết bằng tiếng Ukraine, cấm trường học tiếng Ukraine, cấm trình diễn sân khấu và diễn thuyết.
Trong nửa sau của thế kỷ 19 thời Đế chế Nga, các phong trào đối lập tự do và xã hội chủ nghĩa nở rộ đã thu hút quần chúng Ukraine và giới lãnh đạo (thường là người Nga hoặc người Ukraine theo Nga và người Do Thái). Tột đỉnh của các phong trào là cuộc cách mạng năm 1905. Nông dân nổi dậy, công nhân kỹ nghệ đình công. Chế độ Sa hoàng đứng bên bờ vực thẳm; Sa hoàng Nicholas II buộc phải nhượng bộ, tuy vậy vẫn ương ngạnh và độc đoán. Tháng 2 năm 1917: Đế chế Sa hoàng Nga sụp đổ.
Chiến tranh, Cách mạng và Cộng hòa Nhân dân Ukraine
Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Ukraine đứng về phe Áo-Hung/Nga. Chiến tranh đã làm sụp đổ cả hai đế chế này. Tháng 2 năm 1917, một cuộc cách mạng đã quét sạch Sa hoàng. Vào tháng 3, một tổ chức mệnh danh là "Hội đồng trung ương" (Central Rada) dựa vào mô hình Cossack, do Hrushevsky làm chủ tịch, đã nhóm họp tại Kyiv và vào tháng 6, đòi hỏi Ukraine được quyền tự trị. Năm 1917, một cuộc cách mạng nông nghiệp đã diễn ra tại Ukraine và nông dân đã chiếm đoạt đất đai của giới quý tộc. Sau cuộc Cách mạng tháng 10 của Lenin, người Bolshevik lên nắm quyền, thành lập chính phủ Xô Viết tại Kharkiv và chuẩn bị chinh phục Kyiv. Ngày 12.01.1918, "Hội đồng trung ương" tuyên bố Cộng hòa Nhân dân Ukraine là nước độc lập.
Tháng 2 và tháng 3 năm 1918, quân đội Đức, Áo-Hungary chiếm Ukraine và dựng nên tại Kyiv một chính phủ dưới quyền của Pavlo Skoropadskyj (1873–1945), vị Hetman cuối cùng của Ukraine. Nhiệm vụ chính của nhà nước (gọi là Hetmanate) là cung cấp ngũ cốc cho Đức và Áo-Hungary. Nhưng chế độ bảo thủ này không được lòng dân. Theo Hòa ước Brest-Litovsk 1918, chính phủ Liên Xô của Lenin phải công nhận nền độc lập của Ukraine. Sau sự thất bại của các cường quốc Trung tâm, Cộng hòa Nhân dân Ukraine một lần nữa lại được tuyên bố độc lập tại Kyiv dưới sự điều hành của một hội đồng quản trị gồm có nhà dân chủ xã hội ôn hòa Symon Petlyura (1879–1926) một người rất được tín cậy. Gần như cùng lúc đó, một nước Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraine cũng tuyên bố độc lập nhưng không thể chống lại quân đội Ba Lan. Vùng Galicia (cộng thêm vùng phía Tây Volhynia) lại bị Cộng hòa Ba Lan chiếm đóng. Đồng thời quân Romania chiếm Bukovina, quân Tiệp Khắc chiếm Carpatho-Ukraine.
Hội đồng quản trị Cộng hòa Nhân dân Ukraine bắt đầu xây dựng một nhà nước nhưng tình hình quân sự quá bấp bênh, không thể kiểm soát hết Ukraine. Liên Xô không còn công nhận nền độc lập của Ukraine. Hồng quân đã chiếm đóng Kyiv nhiều lần vào năm 1919 và 1920. Rồi một cuộc chiến đẫm máu đã xảy đến. Cuối cùng Hồng quân Nga chiến thắng, biến Ukraine thành một xứ Cộng hòa Xô viết. Rốt cuộc người Ukraine đã thất bại trong việc xây dựng một nhà nước bền vững sau Thế chiến thứ nhất.
Cộng hòa Xô Viết Ukraine: đói và khủng bố
Năm 1921, sau khi quân Bolshevik kết thúc cuộc chiến với Ba Lan và củng cố quyền lực, họ đã xây dựng một nhà nước Xô viết (Liên Xô) vào năm 1922 dựa vào ngôn ngữ và dân tộc. Theo đó, Ukraine gồm những vùng có đa số dân cư người Ukraine đã trở thành một nước gọi là "Cộng hòa Xô viết Ukraine" thuộc về Liên Xô. Mặc dù quyền lực của nhà nước chư hầu Ukraine vẫn còn hạn chế và phải phục tùng sự cai trị của đảng, nó vẫn là "hạt nhân" của mô hình "quốc gia-nhà nước" ngày nay. Trong nước "Cộng hòa Xô viết Ukraine", tiếng Ukraine trở thành ngôn ngữ chính và ngôn ngữ học đường. Thế nhưng đến thời Joseph Stalin, các nước chư hầu Cộng hòa thuộc Liên Xô bị kiểm soát chặt chẽ; tiếng Nga trở thành ngôn ngữ chính, tiếng Ukraine lại bị coi là ngôn ngữ phụ. Giống thời Đế chế Sa hoàng, người Ukraine muốn vươn lên, phải chấp nhận bị Nga hóa.
Các cuộc thanh trừng của Stalin đã diễn ra vào thập niên 1930 và giới tinh hoa mới bị tiêu diệt. Đa số người Ukraine và người Ba Lan sống ở Ukraine đã trở thành nạn nhân (nhiều hơn so với người Nga). Cuộc thanh trừng bắt đầu với làn sóng đàn áp người bị coi là theo chủ nghĩa dân tộc tư sản. Tiếp theo là "Cuộc khủng bố lớn" kinh hoàng vào những năm 1937-1938. Hàng triệu người Ukraine đã bị Stalin tống vào tù và trại lao động khổ sai gọi là Gulag. It nhất 500.000 người đã thiệt mạng.
Nền nông nghiệp bị tập thể hóa chỉ trong vòng vài năm. Stalin muốn kiểm soát nông dân và cưỡng bức họ gia tăng sản xuất ngũ cốc. Ruộng đất bị quốc hữu hóa và nông dân biến thành những nhà nông bần cùng trong các nông trường tập thể. Nhiều nông dân Ukraine đã chống lại các biện pháp cưỡng chế và đã bị hành quyết hoặc bị tống giam vào nhà tù Gulag. Nhà nước đã thi hành một cách tàn nhẫn việc cưỡng bức giao nộp ngũ cốc và cướp hết kho hàng, hạt giống của nông dân. Kết quả là một nạn đói khủng khiếp đã giết chết khoảng 3 triệu nông dân Ukraine chỉ trong hai năm 1932-1933. Dù nạn đói cũng hoành hành tại những nơi khác của Liên Xô nhưng hơn một nửa tổng số nạn nhân lại là người tại Ukraine.
Nông dân chết đói trên đường phố Charkiw 1933. Ảnh: Wikimedia / Alexander Winerberger.
Ngày nay sự giải thích về nạn đói (Holodomor) vẫn còn nhiều bất đồng ý kiến. Tại Liên Xô, nó đã bị giấu kín. Mãi đến cuối thập niên 1980, tấm áo choàng im lặng mới được vén lên. Giới sử học xác nhận nạn đói đó là do Stalin gây ra. Phần lớn các nhà sử học công nhận chính sách không tin tưởng của Stalin đối với nông dân Ukraine đang chết đói là vô cùng tàn nhẫn. Thế giới chính thức gọi đó là tội ác diệt chủng người dân Ukraine và hiện tại vẫn mãi là chủ đề của các cuộc tranh cãi lịch sử - chính trị giữa Ukraine và Nga. Nga vẫn chối bỏ trách nhiệm. Gần đây, 19.10.2022, sau khi chiếm được thành phố Mariupol, quân Nga đã phá bỏ đài tưởng niệm nạn đói Holodomor.
Ukraine trong Thế chiến thứ hai
Ukraine là một trong những sân khấu chính của Thế chiến thứ hai với những đau khổ khôn lường. Khoảng 6,5 đến 7,5 triệu người Ukraine đã chết, hơn 1/5 tổng dân số; số thương vong của thường dân cao gần gấp đôi số quân nhân.
Mùa Thu năm 1939, theo hiệp ước Hitler-Stalin, Hồng quân Liên Xô được chiếm đóng miền Đông Ba Lan (gồm Đông Galicia và Tây Volhynia). Mùa Hè 1940, Romania bị Liên Xô buộc nhượng lại phía Bắc Bukovina. Mọi khu đều bị sáp nhập vào Liên Xô.
Sự kiện Đức xâm lược Liên Xô có nghĩa là vào tháng 11 năm 1941, toàn cõi Ukraine đã bị quân Đức và Romania chiếm đóng. Một nhóm rất nhỏ người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine (OUN) đã lợi dụng thời cơ, ngả theo Đức với hy vọng thành lập một nhà nước Ukraine độc lập. Họ lập ra "Quân đội nổi dậy Ukraine" (UPA) để chống Liên Xô và cả cư dân Ba Lan ở phía Tây Volhynia và Galicia. (Từ đây Putin đã viện cớ Ukraine xưa nay là vùng đất người theo chủ nghĩa dân tộc chống Nga, điển hình là nhóm chiến binh cực hữu Asov bây giờ, cho nên phải đánh Ukraine, tiêu diệt họ. Chưa hết, Putin còn đổ thừa chính quyền Ukraine theo chủ nghĩa dân tộc và cần phải diệt trừ)
Chính sách chiếm đóng của Đức quốc xã ngay lập tức đã làm mọi hy vọng thành lập một nhà nước Ukraine tan thành mây khói. Ukraine được Đức "giao nhiệm vụ" của một xứ thuộc địa là phải đem lại lợi ích cho nền kinh tế Đức trong thời chiến. Erich Koch, Ủy viên Quốc hội tại Ukraine, tuyên bố vào tháng 8 năm 1942: "Không có cái gọi là Ukraine tự do. Ukraine được phép làm một điều là "cung cấp những gì Đức thiếu. Phải thực hiện nhiệm vụ này mà không được kể đến tổn thất ...", "Trình độ học vấn của người Ukraine phải được giữ ở mức thấp ...", "Bằng mọi cách phải đè bẹp tỷ lệ sinh sản …". Lãnh tụ Đức đã đưa ra kế hoạch thực hiện các biện pháp đặc biệt này.
Hơn 2 triệu người Ukraine đã bị chở tới Đức để lao động khổ sai. Hàng trăm ngàn người Ukraine đã chết dưới sự giam cầm của Đức. Hầu hết người Do Thái ở Ukraine không thể chạy trốn vào Liên Xô, đã bị nhóm mật vụ SS Đức tàn sát. Vụ giết hại hơn 30.000 người Do Thái trong khe núi Babyn Jar ở Kyiv vào ngày 29 và 30.09.1941 đã trở thành một biểu tượng thảm sát tiêu biểu. Hầu hết người dân Ukraine không hợp tác với kẻ chiếm đóng ngoài sự chịu đựng những khổ đau. Hàng triệu người Ukraine đã chọn đứng về phía Hồng quân Liên Xô để chống lại Đức.
Sau khi Hồng quân Liên Xô tái chiếm Ukraine kể từ tháng 8 năm 1943 cho đến tháng 10 năm 1944, tất cả mọi nơi có người Ukraine sinh sống đã được thống nhất thành một nhà nước gọi là "Cộng Hòa Xô Viết Ukraine". Những vùng phía Tây Ukraine lần đầu tiên trở thành vùng đất do Nga thống trị. Sự kiện này được Nga ca ngợi là "sự thống nhất" của nhân dân Ukraine. Một chương trình "thanh lọc sắc tộc" cũng được thực hiện. Hầu hết người Ba Lan được đưa về tái định cư tại Ba Lan và 500.000 người Ukraine từ Ba Lan trở về Ukraine. Khoảng 200.000 người ở miền Tây Ukraine bị coi như không đáng tin cậy về mặt chính trị đã bị trục xuất đến vùng Tây Bá Lợi Á đầy băng giá.
Thế chiến thứ hai hôm nay đã thuộc về những bãi chiến trường của ký ức lịch sử. Tại Nga, chính quyền vẫn ca ngợi tối đa, chiến thắng của Liên Xô chống Đức Quốc xã là một huyền thoại quốc gia, một "cuộc chiến Vệ quốc Vĩ đại" của người Nga. Ngược lại, một số người ở miền Tây Ukraine coi Thế chiến thứ hai là cuộc chiến giải phóng chống Liên Xô và tôn vinh những người lãnh đạo của họ chẳng hạn Bandera là "người hùng". Đây chính là cái cớ để Nga tuyên truyền bôi nhọ, rằng chính phủ Ukraine năm 2014 là "phát xít".
Ukraine sau Thế chiến thứ hai
Năm 1945, Ukraine bị tàn phá gần hết. Việc làm cần gấp là tái thiết những thành phố, nền kỹ nghệ và nông nghiệp. Người dân đã đổ máu nhiều vì chiến tranh nay tiếp tục sống trong cảnh đói nghèo cay đắng. Những vùng phía Tây Ukraine cuối cùng cũng bị đưa vào "vòng trật tự" của nhà nước Xô viết. Nông nghiệp được hợp tác xã hóa, kỹ nghệ và hệ thống trường dạy tiếng Ukraine được xây dựng. Năm 1946, Giáo hội Công Giáo Hy Lạp bị buộc phải giải tán và chỉ có thể tồn tại bí mật trong nhóm di dân.
Sau cái chết của Stalin, người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Liên xô, Nikita Khrushchev (1894–1971), từng là Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine gần mười năm, tiếp tục nắm quyền trong những năm 1920. Dân Ukraine giờ đây may mắn có được những người Ukraine mạnh mẽ nằm trong các cơ quan đảng và nhà nước và có thể vươn lên các vị trí lãnh đạo. Sự thất sủng Stalin ít nhiều đã làm giảm áp lực chính trị và trả tự do cho hầu hết các tù nhân. Những cố gắng phát triển nhà nước phúc lợi, thúc đẩy kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng và nhượng bộ nông dân dần dần đã đem lại một mức sống cao hơn. Sân chơi văn hóa cũng rộng rãi hơn và giới trí thức Ukraine được nhiều cơ hội hoạt động để phát huy ngôn ngữ Ukraine. Những nỗ lực này ngày càng gia tăng suốt những năm 1960, thậm chí còn được sự ủng hộ của người lãnh đạo Đảng Cộng sản Ukraine lúc bấy giờ là Petro Schelest (1908-1996). Song đến đầu thập niên 1970, ông đã bị chỉ trích về đường lối quá cởi mở đối với dân Ukraine và bị khai trừ. Volodymyr Shcherbytskyi (1918–1990), người kế nhiệm ông lên thay. Một cuộc "thanh trừng" đã nổ ra nhắm vào đảng viên và giới trí thức. Xu huớng Nga hóa trong các trường học và sách vở gia tăng trở lại. Người dân ở các thành phố Ukraine kể từ đó nói tiếng Nga là chính, tiếng Ukraine chỉ còn thấy ở vùng quê và miền Tây Ukraine.
Sự Nga hóa mãi tiếp diễn là lý do khiến phe đối lập tại Ukraine lên tiếng. Giới trí thức thành thị đòi hỏi cải thiện tình trạng người Ukraine, đồng thời chống lại quan điểm thống trị của phe nhóm "dĩ Nga vi trung" về lịch sử. Ngoài mối quan tâm về văn hóa còn có thêm những đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền. Mặc dù đó chỉ là những nhóm đối lập nhỏ, chính quyền vẫn thẳng tay đàn áp; nhiều người bị bắt giam.
Perestroika và phong trào độc lập
Sau khi Mikhail Gorbachev khởi sự cuộc "Đổi mới" (Perestroika) Liên Xô vào năm 1985, thì tại Ukraine chẳng thấy thay đổi gì mấy. Sau thảm họa nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (phía Bắc thủ đô Kyiv) vào đầu năm 1986, nhiều nhóm lớn mới bắt đầu rục rịch. Chỉ đến khi hệ thống Liên Xô sụp đổ vào cuối thập niên 1980, các phong trào đối lập chính trị mới thực sự thành hình. Đầu tiên là những người đến từ miền Tây Ukraine. Năm 1989, nhiều nhóm đối lập khác nhau đã tập hợp lại thành một "Phong trào Nhân dân" do cựu tù nhân chính trị Vyacheslav Chornovil (1937–1999) lãnh đạo. "Phong trào Nhân dân" đã huy động một cuộc xuống đường khổng lồ gồm hơn 400.000 người tham dự từ Kyiv đến Lviv vào năm sau.
Phong trào đối lập lúc này đang chuyển dần thành "phong trào độc lập dân tộc", đứng đầu là Leonid Kravchuk, đại diện đảng Cộng sản, được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Cùng với hầu hết các nước Cộng hòa Liên Xô khác, Cộng hòa Ukraine tuyên bố chủ quyền vào tháng 7 năm 1990. Ngày 24.08.1991, một cuộc đảo chính đã xảy ra tại Moscow và thất bại. Ukraine tuyên bố độc lập và rời bỏ Liên bang Xô viết. Ngày 01.12.1991, trong một cuộc trưng cầu dân ý, 90% dân số đã bỏ phiếu ủng hộ, bầu Kravchuk với 61% làm Tổng thống Ukraine. Ngày 08.12.1991, ông cùng với hai vị đồng cấp là Yeltsin (Nga) và Shushkevich (Belarus) ký Hiệp định Belovezh: "kết thúc sự tồn tại của Liên Xô".
Lễ ký Hiệp định Belovezh kết thúc sự tồn tại của Liên Xô. Ảnh: Wikimedia / U. Ivanov/Ю. Иванов
D.V.
Stuttgart, 01.11.2022
(hết phần 1)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét