Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

Slovakia cho Bộ trưởng Tô Lâm mượn máy bay của Chính phủ Slovakia để chở Trịnh Xuân Thanh

Slovakia cho Bộ trưởng Tô Lâm mượn máy bay của Chính phủ Slovakia để chở Trịnh Xuân Thanh 

 30.04.2018 18:16  7478
Theo thông tin của tờ F.A.Z. nhận được, chỉ ba ngày sau khi vụ bắt cóc xảy ra tại Berlin, nước Slovakia đã cho một phái đoàn cấp cao Việt Nam sử dụng một máy bay của Chính phủ Slovakia để bay từ thủ đô Bratislava đến Moscow. Từ đó máy bay này có lẽ đã bay tiếp tục đến Việt Nam. Việc cho mượn máy bay của Chính phủ Slovakia hiện đang đặt ra câu hỏi liệu nạn nhân bị bắt cóc Trịnh Xuân Thanh có trên chiếc máy bay này hay không.
Slovakia cho Bộ trưởng Tô Lâm mượn máy bay của Chính phủ Slovakia để chở Trịnh Xuân Thanh
Bộ Trưởng Bộ Công an Việt Nam Tô Lâm đã mượn máy bay của Chính phủ Slovakia để chở Trịnh Xuân Thanh.
Slovakia cho Bộ trưởng Tô Lâm mượn máy bay của Chính phủ để chở Trịnh Xuân Thanh.
Hôm qua ngày 29.04.2018, tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung, nhật báo đứng hàng đầu nước Đức, đã đăng một bài báo với tựa đề “Slovakia cho những kẻ bắt cóc mượn máy bay của Chính phủ Slovakia để chở Trịnh Xuân Thanh”. Sau đây là bản dịch bài báo này:
Ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy Slovakia đã tham gia vụ bắt cóc người Việt Nam Trịnh Xuân Thanh từ Berlin vào tháng 7/2017. Theo thông tin của tờ F.A.Z. nhận được, chỉ ba ngày sau khi vụ bắt cóc xảy ra tại Berlin, nước Slovakia đã cho một phái đoàn cấp cao Việt Nam sử dụng một máy bay của Chính phủ Slovakia để bay từ thủ đô Bratislava đến Moscow. Từ đó máy bay này có lẽ đã bay tiếp tục đến Việt Nam. Cho đến nay, các nhà điều tra đã không chắc chắn, những kẻ bắt cóc đã đưa nạn nhân về Việt Nam như thế nào. Việc cho mượn máy bay của Chính phủ Slovakia hiện đang đặt ra câu hỏi liệu nạn nhân bị bắt cóc Trịnh Xuân Thanh có trên chiếc máy bay này hay không.
Chủ nhật vừa qua, phản ứng đối với bài báo của tờ F.A.Z. (xem bản dịch bài báo này ở đây) Bộ Nội vụ Slovakia đã bác bỏ mối nghi ngờ tham gia vào vụ bắt cóc. Tuy nhiên, Bộ Nội vụ Slovakia không loại trừ rằng Việt Nam có thể "lợi dụng" lòng hiếu khách của Slovakia. Bộ Nội vụ lấy làm lo ngại một cách nghiêm trọng rằng chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam đến Bratislava ngày 26 tháng 7 năm 2017 có thể đã được sử dụng cho một mục đích khác ngoài cuộc họp làm việc theo lịch trình. Nếu được xác nhận, đó là một sự "lợi dụng" lòng hiếu khách của Slovakia, thì có thể mối quan hệ thân thiện với Việt Nam sẽ bị "chôn vùi".
Chính thức, phái đoàn Việt Nam đã đến Bratislava để tăng cường hợp tác an ninh giữa hai nước. Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Tô Lâm, và Bộ trưởng Nội vụ của Slovakia, Robert Kaliňák đã tham gia các cuộc đàm phán. Nhưng theo hồ sơ điều tra mà tờ F.A.Z. có được, cho thấy rằng đúng vào thời điểm đó hai nghi phạm chính của vụ bắt cóc đã đỗ xe trong bãi đậu xe của khách sạn Borik, nơi diễn ra cuộc họp– theo dữ liệu của hệ thống định vị GPS trang bị trong chiếc xe này mà các nhà điều tra thu thập được. (Chú thích của người dịch: 2 Nghi phạm nêu trên là Nguyễn Hải Long và ông cậu Đào Quốc Oai. Hai nghi phạm này không tham dự cuộc họp nói trên, có lẽ nhiệm vụ của họ là chở Trịnh Xuân Thanh đến đây).
Hiếu Berlin – Thoibao.de (Biên dịch)

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ Ngoại giao Đức yêu cầu Đại sứ Slovakia tới nói chuyện

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ Ngoại giao Đức yêu cầu Đại sứ Slovakia tới nói chuyện 

 01.05.2018 01:46 
Bộ Nội vụ Slovakia bày tỏ lo ngại và thừa nhận rằng phái đoàn Việt Nam đã thay đổi lịch trình của mình một cách đột ngột, do đó Bộ Nội vụ Slovakia đã cho phái đoàn Việt Nam sử dụng một chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia. Theo lịch trình ban đầu, thậm chí phái đoàn Việt Nam không đến Slovakia mà là đáp xuống Vienna, thủ đô nước Áo. Tuy nhiên vì những lý do mà không được tiết lộ, phái đoàn Việt Nam lại chuyển hướng bay đến Praha, thủ đô CH Séc.  “Vì sự thay đổi lịch trình này và chương trình làm việc ngay sau đó ở Moscow, thủ đô nước Nga, nên chúng tôi cấp cho họ một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để họ bay từ Praha đến Bratislava, thủ đô Slovakia và sau đó bay đến Moscow, thủ đô nước Nga”, Bộ Nội vụ Slovakia cho biết.
Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ Ngoại giao Đức yêu cầu Đại sứ Slovakia tới nói chuyện
Đại sứ Slovakia tại Đức Peter Lizák (bên trái) cùng cựu Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel
Hôm qua ngày 30.04.2018 tờ Der Spiegel (Tấm Gương), một tuần báo nổi tiếng nhất của Đức, đã đăng một bài báo với tựa đề „Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ Ngoại giao Đức yêu cầu Đại sứ Slovakia tới nói chuyện“ và hàng tít phụ „Các mật vụ đã bắt cóc một cựu chính trị gia Việt Nam tại Berlin. Giờ đây dấu vết dẫn đến Slovakia. Mới đây Đại sứ của nước thành viên EU này đã được mời đến Bộ Ngoại giao Đức để thảo luận“.  Sau đây là bản dịch bài báo của Der Spiegel:
Đây là một vụ bắt cóc ngoạn mục và là một gánh nặng cho quan hệ Đức-Việt. Trong tháng bảy năm ngoái, doanh nhân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh và nhân tình của ông đã bị bắt cóc vào giữa ban ngày ở Berlin. Các mật vụ đã bắt cóc đôi nhân tình này tại gần công viên Tiergarten (Vườn thú) với một chiếc xe VW, sau đó chở thẳng đến Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin-Treptow. Từ đó, nạn nhân bị bắt cóc đã bị đưa về nước – bằng con đường nào thì hiện vẫn đang được điều tra. Dấu vết của cô nhân tình thì bị mất hẳn từ khi chuyển đến nằm trong một bệnh viện quân sự ở Hà Nội.
Hôm thứ Hai tờ "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) đưa tin rằng, hồi tháng 7 năm 2017 Slovakia đã cho một phái đoàn chính phủ cao cấp Việt Nam sử dụng một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để bay từ thủ đô Bratislava đến Moscow. Từ đó chuyên cơ này có lẽ đã bay tiếp tục đến Việt Nam. Việc cho mượn chuyên cơ của Chính phủ Slovakia hiện đang đặt ra câu hỏi liệu nạn nhân bị bắt cóc Trịnh Xuân Thanh có trên chiếc chuyên cơ này hay không.
Chỉ dấu mới nhất về Slovakia, một nước thành viên EU, cũng làm cho các nhà ngoại giao Đức bận rộn. Theo như tờ SPIEGEL biết được, thứ Sáu tuần rồi, ngày 27.4.2018, ông Peter Lizák Đại sứ Slovakia tại Berlin đã được mời đến Bộ Ngoại giao Đức. Đó là về vụ việc: Sự liên quan có thể có giữa chiếc chuyên cơ cho mượn của Chính phủ Slovakia và vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Bộ Nội vụ Slovakia đã phủ nhận việc tham gia vào vụ bắt cóc này theo tường thuật của tờ FAZ, nhưng Bộ Nội vụ Slovakia cũng không loại trừ việc Việt Nam có thể lợi dụng lòng hiếu khách của Slovakia. Chính thức, phái đoàn Việt Nam đến Bratislava vào mùa hè năm ngoái để thảo luận về hợp tác an ninh giữa hai nước. Trong phái đoàn Việt nam có ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam.
Đặc biệt cùng ngày thứ Hai 30.04.2018 một bài báo của tờ Spectator của Slovakia đã tiết lộ một chi tiết quan trọng:
Bộ Nội vụ Slovakia bày tỏ lo ngại và thừa nhận rằng phái đoàn Việt Nam đã thay đổi lịch trình của mình một cách đột ngột, do đó Bộ Nội vụ Slovakia đã cho phái đoàn Việt Nam sử dụng một chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia. Theo lịch trình ban đầu, thậm chí phái đoàn Việt Nam không đến Slovakia mà là đáp xuống Vienna, thủ đô nước Áo. Tuy nhiên vì những lý do mà không được tiết lộ, phái đoàn Việt Nam lại chuyển hướng bay đến Praha, thủ đô CH Séc.
Vì sự thay đổi lịch trình này và chương trình làm việc ngay sau đó ở Moscow, thủ đô nước Nga, nên chúng tôi cấp cho họ một chuyên cơ của chính phủ Slovakia để họ bay từ Praha đến Bratislava, thủ đô Slovakia và sau đó bay đến Moscow, thủ đô nước Nga”, tờ Sme trích dẫn lời Bộ Nội vụ Slovakia phát biểu, tuy nhiên không nói rõ những ai có mặt trên chiếc chuyên cơ của chính phủ Slovakia.
 „Bộ Nội vụ Slovakia cũng liên lạc với phía Việt Nam để kiểm tra thành phần của đoàn Việt Nam và xác định xem có ai khác trên chuyên cơ của Việt Nam hay không“, ông Pellegrini Thủ tướng Slovakei cho biết.
Ông Robert Kalinak, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia và Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm hôm 26.7.2017.
Chuyên cơ của Chính phủ Slovakia đã cho Bộ Trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm mượn chở Trịnh Xuân Thanh về Hà Nội qua ngả Moscow.
Hiếu Bá Linh – Thoibao.de (Tổng hợp)

Tháng Tư, nghĩ lại…


Tháng Tư, nghĩ lại…

30-4-2018

Ảnh trên: Người lính Bắc Việt Nguyễn Huy Tạo (trái) và anh lính VNCH Bùi Trọng Nghĩa (phải) chụp năm 1973. Ảnh dưới bên trái: Hai người lính đó đã gặp lại nhiều năm sau. Ảnh dưới bên phải: Kim Jong-un và Moon Jae-in, lãnh đạo Bắc – Nam Hàn. Ảnh: internet

Bạn già bảo: “Đừng viết về 30/4/1975 nha em. Viết góc nhìn Việt Cộng, “bên kia” chửi mày. Viết về VNCH thì “bên này” chửi mày! Viết khách quan, có khi “hai bên” chửi!”
Ok! Tôi viết về Hoàng Sa, Trường Sa và Bàn Môn Điếm vậy.
Tháng 1/1974, Hoàng Sa do chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã vị Trung Quốc xâm chiếm. Kế hoạch tấn công giành lại Hoàng Sa bằng máy bay F5 đã được thông qua. Phi đội máy bay F5 đã tập kết tại Đà Nẵng nhưng rồi không tấn công. Lý do là có 1 cuộc điện đàm Saigon- Washington…
Tháng 3/1988, nhiều đảo ở Trường Sa của nước CHXHCN Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm. Điểm nhấn đau thương chính là cuộc thảm sát của giặc Tàu với các chiến sĩ đảo Gạc Ma. Hạm đội Nga ở Cam Ranh dư sức đập tan những tàu chiến cũ kỹ của Tàu nhưng chính quyền Moscow thì không, vì họ “thay đổi đường lối ngoại giao”…
Chính quyền Mỹ đối với Việt Nam Cộng hòa hay chính quyền Tàu, chính quyền Nga đối với CHXHCN Việt Nam đều giống nhau: đặt quyền lợi quốc gia của họ lên trên hết. Chỉ có người Việt thiệt thòi!
Khi 2 nguyên thủ Bắc Hàn và Nam Hàn cùng đến Bàn Môn Điếm, lịch sử bán đảo Triều Tiên đương đại đã sang trang mới. Sẽ không còn cảnh “nửa nước này giết nửa nước kia để lập chiến công” khi 2 bên hòa hợp. Nó khác hẳn 20 năm nồi da xáo thịt (1955-1975) của Việt Nam rất xa!
Nhà báo Huy Đức- đàn anh đồng nghiệp của tôi- khi vừa viết xong Bên Thắng Cuộc đã hỏi tôi: “Ấn, mày tin dân tộc có số phận không?” Tôi nghĩ là có! Số phận do con người của dân tộc ấy tạo ra, nhất là những quyết định của nhà cầm quyền. Lấy 1 ví dụ: Nếu 30/4/1975 không kết thúc cuộc nội chiến mà kéo dài đến 1980 như “đề nghị” (khốn nạn) của “bạn vàng” với Việt Cộng thì máu còn đổ nhiều nữa, tiềm lực đất nước còn tan nát nữa.
Nếu cần thiết có một ngày quốc hận, hãy hận những kẻ coi Việt Nam là bãi thử vũ khí nhân danh chủ thuyết họ theo đuổi! Hãy hận “sự ngây thơ lịch sử” và những lựa chọn sai lầm mang tính thời cuộc.
Tháng Tư. Nghĩ lại, thấy đất nước mình đâu phải chỉ một lần nội chiến. Và nghĩ sâu hơn, người Việt chỉ có 2 kẻ thù truyền kiếp. Kẻ thù thứ hai được lịch sử chỉ ra tính bằng ngàn năm. Kẻ thù đầu tiên chính là sự ngu muội của một dân tộc mà sát tính không chỉ dành cho kẻ thù mà cho cả đồng bào mình.
Tháng Tư. Nghĩ lại đi!

Tâm tình cuối Tháng Tư


Tâm tình cuối Tháng Tư

Võ Thiêm
30-4-2018
Ba mươi tháng Tư, một ngày có triệu người vui mà cũng có triệu người buồn như lời ông cựu thủ tướng Việt cộng Võ Văn Kiệt đã nói. Sau một cuộc tương tàn, anh em chém giết nhau một cách tận tình gần một phần tư thế kỷ, cả kẻ bại người thắng đều đổi đời thì chuyện kẻ vui người buồn hẳn là điều tất nhiên. Cái không bình thường là phải chờ đến ba muơi năm sau để nói một lời “huề cả làng” như vậy mà có nhiều người, cả hai bên, suýt soa ồ lên một cách thích thú. Hình như mọi sự thật hễ được nói ra từ miệng của lãnh đạo cộng sản thì trở thành một điều lạ lùng, thậm chí thành danh ngôn. Đó là cái bất thường và bất hạnh của (dân tộc) chúng ta.
Nhưng thôi, ai vui thì vui, tôi thuộc nhóm người buồn. Vì buồn nên tôi thường tự hỏi vì sao có cái ngày oan nghiệt đó. Đã có nhiều người nói về các nguyên nhân xa gần đưa đến thảm họa cho đẩt nước. Tuy vậy tôi không đi sâu vào các chi tiết này ở đây vì đã có nhiều bậc thức giả với kiến thức uyên thâm, có liên hệ, có thẩm quyền để nói đến. Tôi, với cái nhìn của một người dân bình thường, sinh ra lớn lên ngay trong lòng cuộc chiến, ghi lại đây những suy nghĩ của riêng mình nhân nhớ về ngày 30 tháng Tư.
Những sự kiện tôi nêu ra là có thật, những tâm tình của tôi là tự đáy lòng. Chút ước mong là chúng ta có thêm một dịp để nhìn lại, để không quên những bài học đắng cay trong quá khứ.
Tôi sinh ra ở một làng quê miền Trung ngày chia đôi đất nước, ngay từ thuở bắt đầu đi học đã tiếp xúc với chiến tranh. Ngôi trường nhỏ xíu đầu đời của tôi có lần là nơi xử bắn một viên chức trong làng khi cộng sản mới về. Khi chiến tranh leo thang sau năm 1963, gia đình tôi tản cư về tỉnh. Trên con đường nhà tôi cư ngụ, cách khoảng 1 cây số là một trại gia binh, trong đó oái ăm thay lại có ngôi nhà Vĩnh Biệt, nơi những người lính chết trận được chở về, tẩm liệm rồi đưa về quê. Nhiều lần xe chở xác người đã bốc mùi xông vào tận nhà. Nhiều lần tiếng than khóc của thân nhân người chết gào thét trên quan tài phủ quốc kỳ vang tới từ xa, rõ dần rồi mất hút theo bụi mờ cùng tiếng động cơ của xe nhà binh chạy ngang qua. Cảnh tượng đó xảy ra hằng ngày, hằn theo năm tháng tuổi thơ của tôi.

Tóc xanh khăn trắng. Nguồn: OntheNet

Nhiều đêm súng nổ đì đùng, đạn lửa bay vèo ngang dọc trên bầu trời từ các đồn lính không xa thị xã. Bây giờ khi lớn lên, có gia đình, biết lo cho vợ con, tôi vẫn thường nghĩ về thân nhân các người lính trong trại gia binh đó. Những người mẹ, những người vợ, những đứa con… Lúc đó đời sống hằng ngày của họ nặng nề biết là bao. Từng ngày lo lắng, hồi hộp mỗi lần thấy xe chở xác về. Niềm vui mừng khốn khổ kèm theo cái thở phào nhẹ nhõm mỗi khi giở tấm poncho che mặt và nhận ra đó không phải là chồng con của mình. Đêm đêm tim giật thót từng hồi theo từng loạt đại bác hay súng nổ trên đồn… Họ đã âm thầm âu lo, chờ đợi từng ngày, từng phút trong những năm dài lê thê vô vọng đó. Sự bình yên thật mong manh, nỗi đe dọa tang tóc treo lơ lửng, chờn vờn, dai dẳng.
Sự hy sinh đó thuộc về tất cả người dân thấp cổ bé miệng khắp mọi miền đất nước, tuy rất to lớn mà không ồn ào, tuy cam phận mà đầy cao cả. Nói cho công bằng thì những người có trọng trách và những người thụ hưởng sự hy sinh đó cũng thường lên tiếng biết ơn. Nhưng một khi lời nói không đi đôi với việc làm thì mọi lời ca tụng cũng chỉ là những điệp khúc của một bản nhạc tồi; người ta chỉ hát lên một cách vô cảm.
Tôi viết như thế vì, đồng thời với sự hy sinh của những người lính ngoài mặt trận, tôi cũng chứng kiến những sự kiện trái ngược, rất đau lòng ở hậu phương. Đó là lòng tham lam, ích kỷ, sự chia rẽ, bè phái đấu đá nhau và ngay cả phản bội trong xã hội miền Nam lúc đó.
Từ năm 1966, khi bắt đầu bậc trung học, tôi đã đôi lần chứng kiến cảnh học sinh biểu tình bãi khóa. Nòng cốt trong các vụ này là đoàn Sinh viên Học sinh Quyết tử, nghe nói có người từ ngoài Huế vào. Họ hung hăng xách động biểu tình, từng đoàn xe chạy vòng vòng trên đường phố với loa phóng thanh kêu gọi dân chúng nổi đậy chống chính quyền, đòi Mỹ cút về nước. Họ nêu chiêu bài chống Mỹ cùng bè lũ tay sai Thiệu-Kỳ mà không nhận mình là cộng sản. Họ chiếm những ngôi trường, bãi chợ, tấn công một vài cơ quan công quyền. Trong số họ hẳn nhiên có cộng sản nằm vùng, có kẻ thân cộng, hoặc là bị cộng sản giật dây và cả kẻ a tòng vì những lý do nhỏ mọn riêng tư như ham chơi, biếng học, trốn lính…
Tôi cũng chứng kiến sự chia rẽ ngay trong hàng ngũ những người chống cộng quyết liệt. Trong số đó có những người rất thân thiết với gia đình tôi, mà tôi mạn phép đề cập đến nơi đây, chỉ để nhấn mạnh đến một sự việc không hay mà tôi nhìn thấy.
Gia đình tôi hầu hết tham gia Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ). Bác tôi là một mẫu Mạnh Thường Quân tân thời, nhà lúc nào cũng có “tân khách.” Tôi vẫn nhớ khoảng đầu thập niên 60, nhà tôi là nơi các đồng chí của cha tôi lui tới thường xuyên. Mỗi lần họ đến anh em tôi rất vui vì được cưng chiều và ăn ngon. Họ thân thiết đến độ ngồi ăn cơm ở nhà duới cùng cha mẹ và chị em chúng tôi. Sau này tôi biết nhiều người trong số họ trở về từ chiến khu Nam Ngãi (một chiến khu ly khai do VNQDĐ thành lập chống lại chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm sau 1954.) Một số những người đó sau này là lãnh đạo trung ương của Việt Quốc, là dân biểu, nghị sĩ của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhưng sự đoàn kết thân thương đó không bền lâu. Cũng như nhiều tổ chức đảng phái khác – và ngay cả các tôn giáo – VDQDĐ chia rẽ trầm trọng. Họ chia rẽ đến độ xem nhau như kẻ thù, chỉ thiếu điều bắn giêt nhau công khai. Tôi có những người bà con mà không bao giờ thấy họ bước đến nhà chỉ vì họ thuộc hệ phái khác! Giờ đây đã qua hơn 40 năm, tôi không muốn nói đến ai phải ai trái. Dù phải, dù trái, tất cả đều có lỗi. Khi viết đến đây tôi thầm tạ lỗi cùng vong linh của những người đã khuất. Mọi sự chia rẽ nơi hậu phương trước hết là có lỗi với những người đang chiến đấu từng giờ ngoài mặt trận. Tất cả đều đã vô tình, đã quên đi nỗi hiễm nguy của các chiến sĩ, nỗi đau khổ của người người mẹ, người vợ của những người vừa nằm xuống. Và quan trọng hơn hết, cái lỗi đó đã góp phần đưa đến ngày đại tang 30 tháng 4 năm 1975.
Năm 1972, khi vào đại học tại Sài Gòn, tôi lại chứng kiến sự chia rẽ còn đa dạng hơn nữa ở thủ đô. Mặc dầu giai đoạn này phong trào sinh viên biểu tình phản chiến không còn, trong khuôn viên trường đại học, ký túc xá, người ta vẫn tuyên truyền, nói xấu chế độ. Rất nhiều người hướng về phía “bên kia” một cách công khai.
Báo chí đình công, ký giả biểu tình ăn mày. Nhan nhãn nhưng bài báo, bài hát, tranh biếm họa phỉ báng chế độ. Các tôn giáo cũng có nhiều nhóm hay giáo hội, các đảng chính trị đều có nhiều hệ phái, nhiều lãnh tụ.

“Ký giả đi ăn mày”. Nguồn: “Hồi ký không tên” của Lý Quí Chung

Trong quân đội, các tướng lãnh là những người trách nhiệm trực tiếp đến sinh mạng của các chiến sĩ đang gian khổ ngoài tiền tuyến cũng không thuận hòa. Các dân biểu nghị sĩ cũng có rất nhiều phe cánh, không đơn thuần là bất đồng chính kiến mà chỉ tìm cách triệt hạ nhau vì những lý do cá nhân, phe đảng.
Giới trí thức có rất nhiều người tỏ thái độ bàng quan, phản chiến, thiên tả, thậm chí họ binh vực, bao che cho bạn bè là bọn cộng sản nằm vùng và xem đó là thái độ của kẻ thức thời hay cách ứng xử của người trí thức. Trong giai đoạn này, nổi bật là cái gọi là “thành phần thứ ba”. Họ bao gồm nhiều thành phần từ sinh viện, văn nghệ sĩ, công chức cho đến các dân biểu, nghị sĩ. Họ tự nhận mình không cộng sản và tự cho mình có con đường sáng suốt để giải quyết cuộc chiến. Họ yêu sách, bắt bẻ, kết tội rất nhiều phía VNCH mà tảng lờ mọi hành vi xâm lược của cộng sản. Họ cho rằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) không phải là cộng sản hay công cụ của Bắc Việt. Có kẻ còn thần tượng ông Hồ và cho rằng Nga Tàu là anh em, Mỹ là kẻ xâm lược. Lúc đó những ai cương quyết không chấp nhận MTGPMN đều bị họ gán cho cái nhãn tay sai Mỹ, là cực đoan, là chống cộng tới chiều.
Tất cả đã làm cho Miền Nam nát bét.
Tình trạng đó đã làm nản lòng những người Việt quốc gia nhiệt huyết nhất. Người dân và chính quyền các nước thuộc thế giới tự do chắc hẳn cũng khó có thiện cảm với một đồng minh như vậy.
Trong khi đó những người lính vẫn chết hằng ngày ngoài mặt trận. Trên mặt báo, mục cáo phó, phân ưu với các tấm hình rất trẻ vẫn chiếm nhiều trang. Và con đường ngang qua nhà tôi ngoài quê mỗi ngày những chuyến xe chở xác người vẫn tiếp tục đi về khu nhà Vĩnh Biệt. Những người mẹ, những người vợ, những đứa con trong trại gia binh vẫn sống những ngày đầy âu lo, đầy nước măt!
Tôi chỉ nhắc lại một bối cảnh như thế mà không đi sâu vào nguyên nhân gây chia rẽ. Có người nói rằng sự chia rẽ là do cộng sản hoặc Mỹ gây ra nhằm chia để trị, mà chúng ta là nạn nhân bị mắc bẫy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến cái hậu quả thảm khốc mà toàn dân miền Nam đang gánh chịu. Đó là trong nhiều người trong chúng ta, dẫu không chấp nhận cộng sản, đã quá ích kỷ, không biết hy sinh cái “ta” nhằm đoàn kết để đối đầu với bọn ác. Nhiều người đã quá cả tin vào cộng sản. Đó là một bài học đáng giá mà thiết nghĩ không bao giờ được quên.
Thế rồi miền Nam rơi vào tay cộng sản. Thử tưởng tuợng nỗi cay đắng của những người bị lừa trong “thành phần thứ ba” khi họ nghe một cán bộ Bắc Việt trả lời ông Dương Văn Minh khi ông ta đòi bàn giao chính quyền cho “mấy người anh em phía bên kia”: “Các ông chỉ có đầu hàng, các ông đâu còn cái gì mà bàn giao.” Và tôi cũng hình dung ra được nụ cười hiểm ác, đắc thắng và hả hê của bọn cộng sản nằm vùng đội lốt “thành phần thứ ba” khi chúng chứng kiến sự thảm hại của các nạn nhân của chúng.

Bàn giao còn không được thì mong gì hòa hợp hòa giải. Nguồn: OntheNet

Nhưng trong nỗi buồn cũng có chút an ủi. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi được chứng kiến sự đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau rất chân thành của nhiều người mà trước đây chống đối nhau.
Một ví dụ, tôi còn nhớ khoảng năm 1976 là giai đoạn cực kỳ khó khăn về mọi mặt, một người chú họ của tôi thỉnh thoảng xuất hiện thì thầm cùng cha tôi. Nhưng lần ấy khi chia tay cha mẹ tôi đều “dúi” vào tay chú, khi đùm gạo, khi ít tiền. Chú là người thuộc hệ phái khác của Việt Quốc mà trước đây không bao giờ bước tới nhà tôi; chú đang lẩn trốn không ra trình diện. Lúc đó tôi chỉ thấy tình gia đình, tình đồng chí đầy đùm bọc, đoàn kết.
Tôi được biết hầu hết những người miền Nam thuộc nhiều thành phần tả hữu đã rất thương yêu giúp đỡ nhau trong tù cộng sản sau năm 1975. Tôi nghe nói những năm đầu sau 1975, đồng bào chạy khỏi nước rất đồng tâm nhất trí cùng nhau hướng về quê hương. Không có gì lạ nếu mọi sự quyên góp cho việc quang phục quê hương trong giai đoạn đó rất dễ dàng.
Nhưng sự đoàn kết quí báu đó, buồn thay, lại cũng không bền lâu.Ngày nay, sau 35 năm kể từ cái ngày 30 tháng 4 đen tối đó, cộng đồng chúng ta tại hải ngoại, bên cạnh mặt tích cực, rất nhiều những tình trạng của ngày xưa đang tái hiện.
Tôi xin nêu ra đây vài sự kiện mà tôi cho là đáng quan tâm:
– Thứ nhất là sự chia rẽ. Cần nhấn mạnh đó là sự chia rẽ của những người “lãnh đạo” hay có tăm tiếng trong cộng đồng chứ ngưòi dân, thành viên trong cộng đồng thì lấy cái gì mà chia rẽ! Sự tranh chấp vẫn như xưa trong khi kẻ thù là bọn cộng sản vẫn tồn tại, vẫn khủng bố các chiến sĩ ngoài mặt trận – bây giờ là những người tranh đấu trong nước – quả là một điều rất đáng buồn.
– Thứ hai là ngày nay ở hải ngoại lại xuất hiện những thành phần với chiêu thức y hệt “thành phần thứ ba” ngày xưa. Cũng như cái gọi là “thành phần thứ ba” ngày xưa, thành phần “Việt kiều yêu nước” hôm nay nói rằng họ không theo cộng sản. Họ cho rằng hợp tác với chính quyền cộng sản là phương cách tốt nhất để để giải quyết các vấn đề tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Đó là sự sai lầm hoặc là cái vỏ bọc nhằm che đậy mưu đồ xấu xa, vị kỷ mà bọn “thành phần thứ ba” đã dùng ngày xưa. Luận điệu, chiến thuật cũng tương tự. Bình mới, nhãn hiệu cũng khác nhưng rượu thì vẫn như cũ.
Tôi nghĩ rằng chúng ta đã trả giá quá đắt để có một kinh nghiệm đau thương và không nên cho phép mình lặp lại. Chúng ta cũng có bổn phận phải san sẻ cho con em kinh nghiệm của mình về bài học đau thương ngày 30 tháng 4 năm 1975. Khi tôi viết những dòng này thì tại miền Nam California cộng đồng người Việt đang cố gắng hình thành một ban đại diện duy nhất kể từ 35 năm nay. Tôi vui mừng chờ đợi kết quả và hy vọng rằng kẻ thắng người thua đều sẽ chung tay nhau xây dựng một cộng đồng đoàn kết, vững mạnh.
Nhưng niềm vui đó lại cũng không trọn vẹn khi tin mới nhất cho biết năm nay sẽ có hai buổi lễ tưởng niệm ngày 30 tháng 4 tại Tuợng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, vùng Little Sài Gòn – một do phía cộng đồng và một do phía Giám sát viên Janet Nguyễn tổ chức. Một ngày đau thương mà tổ chức kỷ niệm đến hai lần, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình bị nhân đôi!Vết thương 35 năm vẫn chưa lành, lẽ nào chúng ta đã quên đi bài học cũ? Xin nhớ rằng cuộc chiến chưa tàn. Chúng ta đã thua một trận chiến, đã chạy trốn cả nửa vòng trái đất và kẻ thù vẫn đang đuổi theo.
San Diego, cuối tháng Tư 2010.

Tản mạn quanh chuyện “Đại thắng” hay “Quốc hận”


Tản mạn quanh chuyện “Đại thắng” hay “Quốc hận”

Hà Sĩ Phu
30-4-2018
1/ Đại thắng hay quốc hận?
Trong sự kiện 30-4-1975 của chiến trường Việt Nam, miền Bắc thắng miền Nam nên miền Bắc gọi đó là đại thắng, miền Nam thua và gọi đó là quốc hận. Nếu thoát ra khỏi nhãn quan của mỗi bên, chỉ lấy lợi ích và tương lai của cả đất nước, của toàn dân làm trọng thì xin hỏi biến cố kết thúc cuộc chiến như tháng Tư năm 1975 ấy là điều tốt hay xấu, có lợi hay có hại, đáng mừng hay đáng tiếc đây?
Có thể viện dẫn một chân lý chung đã thành kinh điển “Chiến tranh, nhất là nội chiến thì dù bên nào thắng, nhân dân cũng là kẻ thua”, nhưng cũng phải nói thêm: khi bên thắng là Cộng Sản (CS) thì sự “thua” của nhân dân có phần đậm hơn! Bởi CS thắng thì đưa cả nước vào quỹ đạo CS là quỹ đạo của một chủ thuyết có tính chất dân túy (Populismus), ve vãn người dân bằng những ảo tưởng đến mức độ ngớ ngẩn về mặt khoa học, nhưng lại có sức lôi cuốn, kích động, cực đoan nên tàn phá xã hội đến mức tan hoang.
Giương cao búa liềm Công Nông nhưng Công Nông thời CS khổ hơn bao giờ hết. Riêng VN thì con đường CS còn dẫn đến một đại họa bao trùm hết thảy là nạn Bắc thuộc mới, trở lại mối họa truyền kiếp với nước khổng lồ Bắc phương. Môt “đại thắng” của chuyên chính CS toàn trị lại trở thành một “quốc hận” đối với quốc gia, với nghĩa như một điều đáng ân hận, điều không may, điều đáng tiếc cho đất nước bởi khi CS nắm quyền toàn trị nó cản trở một cách mãnh liệt con đường Dân chủ pháp trị là con đường văn minh chung của nhân loại ngày nay.
2/ Những tấm gương của thế giới chứng minh điều gì?
Có 3 nước cùng bị chia đôi, một nửa thành CS một nửa vẫn là chế độ Dân chủ pháp trị của thế giới văn minh, đó là nước Đức, Việt Nam và Triều Tiên.
Lịch sử đã bày ra 3 tình huống khác nhau: Ở Đức chủ nghĩa CS sụp đổ, phần Tây Đứ dân chủ làm chủ hoàn toàn đất nước thì có sự bao dung, hài hòa, tiếp tục là một quốc gia cường thịnh và dân chủ bậc nhất châu Âu.
Triều Tiên thì CS phía Bắc lúc đầu ngoan cố, hiếu chiến nhưng không thể khuất phục nổi nửa phía Nam nên dần dần được chính sách “Ánh dương” nhân đạo của Nam Hàn cảm hóa, nay đang có triển vọng hai miền bắt tay nhau thì hứa hẹn một quốc gia phát triển và hùng mạnh. Còn ở Việt Nam thì máu hiếu thắng của CS kết hợp với viện trợ của “kẻ thù truyền kiếp” Trung Cộng nên đã chiếm trọn miền Nam, đưa cả nước vào quỹ đạo CS thì đang tụt hậu khủng khiếp như ta đang thấy, kém thua bè bạn xung quanh hàng thế kỷ, có nguy cơ mất luôn cả độc lập! (Xin không mô tả ra ở đây vì mọi việc đã phơi bày hàng ngày trên khắp các phương tiện truyền thông).
Đối chiếu tình hình 3 nước ấy rõ ràng bật ra quy luật: ở đâu mà Dân chủ pháp trị đứng vững (Hàn quốc) hoặc hoàn toàn làm chủ (Đức) thì ở đó tình hình sáng sủa, trái lại ở đâu CS thắng thế bao trùm thì ở đó xã hội phân ly, kinh tế bất ổn, văn hóa suy đồi và tương lai mất nốt cả độc lập, đó là Việt Nam. Đích danh thủ phạm đã hiện ra rõ mồn một chứ còn gì nữa, đó là chủ nghĩa CS, chủ nghĩa mà trí tuệ hiện đại của toàn châu Âu đã tổng kết thành nghị quyết 1481, đã chỉ rõ CNCS chẳng qua là một ngộ nhận nhất thời, một đại họa nhất thời của nhân loại, phải được loại trừ.
Tình hình đã rõ như thế, nhận thức tiên tiến của con người đã rành mạch như thế mà những người cầm quyền ở VN vẫn cứ nhất mực “kiên trì” cái chủ nghĩa phản động, phản tiến hóa ấy (mặc dù chính người đứng đầu ĐCSVN cũng phải công nhận một thế kỷ nữa cũng chưa rõ chân dung cái chủ nghĩa ấy sẽ có diện mạo thế nào). Biết rõ một chủ thuyết chỉ là tà thuyết nhưng không bỏ được vì không được bỏ! Mà quyền chọn con đường đi cho đất nước mình mới là Dân quyền và Nhân quyền cơ bản nhất, nó quyết định mọi thứ quyền cụ thể khác. Khi cái quyền cơ bản nhất ấy đã bị áp đặt thì xin đừng khoe các quyền khác làm gì!
3/ Những lực cản chính
Xin điểm vài nguyên nhân chính khiến cho tà thuyết chính trị Mác-Lê vẫn cứ chễm chệ trên đầu nhân dân ta:
– Chế độ chính trị Mác-Lê gây tác hại cho nhân dân và đất nước nhưng trái lại, nó đem đặc quyền đặc lợi như vua chúa cho đám người cầm quyền nên họ quyết giữ chế độ vả trị tội rất nặng công dân nào muốn phê phán chế độ.
– Chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng hiện nay chỉ có thể biến VN thành chư hầu theo kiểu “tằm ăn dâu” nếu VN cũng là chế độ CS, trong đó ĐCS nắm quyền tuyệt đối. Vì thế Trung Cộng quyết giữ cho VN phải ở chế độ CSđể thực hiện cho xong dã tâm xâm lược. Lực cản này còn ác liệt hơn lực bảo thủ của bản thân ĐCSVN.
– Dân thì vô cảm, hầu như không quan tâm đến chính trị, trừ những nơi dân cần phải đứng lên để giữ lấy đất đai ruộng vườn đang bị cướp. Sự vô cảm của dân có những nguồn gốc khác nhau:
+ hoặc do lối sống thực dụng của xã hội tiêu thụ, chỉ biết vui thú với những hưởng thụ cá nhân và gia đình minh, không quan tâm gì đến số phận chung.
+ hoặc vốn đã có lý tưởng, có ý thức chính trị nhưng sau thời gian thấy bị lừa dối, phản bội nên nay đã chán ngấy tất cả.
+ hoặc nếu quan tâm đến chính trị là bị chính quyền gây khó, làm khổ ngay, nên phải tránh để được sống yên.
+ hoặc cũng muốn góp phần cải biến xã hội nhưng chẳng thấy có “ngọn cờ” nào có hiệu quả đáng để tin tưởng mà tham gia. …v…v…
Dân là những người thụ động, buộc phải thích nghi để sống còn nên không thể trách dân mà phải giúp cho dân thoát khỏi tình trạng lảng tránh, thờ ơ ấy. Đó là nhiệm vụ khó khăn đặt lên vai các nhà Dân chủ và các tổ chức Xã hội dân sự, mà hiện nay còn rất tản mạn chưa tìm được cách hoạt động chính thức trong một xã hội CS toàn trị, mà về dân chủ thậm chí còn thua cả thời Pháp thuộc).
4/ Một vài căn bệnh về tâm lý
Bệnh hiếu thắng Cộng sản: bệnh hiếu thắng vốn có từ lâu nhưng từ khi lan truyền chủ nghĩa CS, nó xúi dục con người phải chiến thắng mọi thứ kẻ thù để giành chiến thắng thì hiếu thắng thành bệnh nặng. Đánh thắng cả “2 đế quốc to” là oai hùng lắm, nên khi đất nước tạm chia đôi lập tức phải tìm cách vũ trang để đánh thắng miền Nam cho kỳ được. Sau 1975 Mỹ sẵn sàng viện trợ thì không thèm nhận viện trợ, bảo VN chiến thắng thì Mỹ phải bồi thường chiến tranh mới đúng tư cách…Nhưng hiện nay đến lúc phải chiến đấu để chiến thằng âm mưu bành trướng của Tàu thì ý chí chiến thắng ở đâu chẳng thấy, cho nên sự hiếu thắng chỉ là hiếu thắng kiểu CS.
Ông cha mình biết chiến thắng quân ngoại xâm nhưng cũng phê phán thứ hiếu thắng vô bổ: “Chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang, chứ đánh được người thì mặt vàng như nghệ!”. Có những thứ chiến thắng mang lại tai họa ngay cho kẻ thắng. Đại thắng để chiếm miền Nam đúng là thứ hiếu thắng CS, nên cuộc Đại thắng trở thành Quốc hận đối với đất nước
(Xin nói thêm: Nếu đã coi ngày 30/4/1975 là ngày Quốc hận, CS làm chủ miền Nam, thì đó chỉ là Tiểu Quốc hậnĐại Quốc hận phải là ngày 19/8 và 2/9/1945, ngày đó đánh dấu cả giang sơn VN bắt đầu nhuộm đỏ, từ đó sinh ra mọi thứ “hận” về sau).
Sính dùng bạo lực, tưởng dùng lực với người khác là biểu thị sức mạnh. Nhưng cổ nhân đã dạy “ Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” (thắng người khác chỉ là do có thứ lực cơ giới, lực cơ bắp; tự thắng được mình mới là kẻ mạnh). Tự thắng mình để mình tiến bộ lên về trình độ đã là khó, nhưng khó nhất là tự bỏ được những thói rởm, thói hư của mình mới càng khó hơn, mà cái thói hư nhất của CS là bệnh say chiến thắng người khác trong khi tự nuông chiều mình, nuông chiều chế độ của mình vô hạn.
Tâm lý thích vọt lên đỉnh. Kẻ ở dưới đáy thường mơ khát vọng vọt lên đỉnh, vọt lên hàng đầu, vọt lên đón đầu, chứ không thích đứng khoảng giữa mặc dù từ đáy tiến lên hàng giữa đã là chuyện khó khăn. Ví dụ như một thằng học dốt luôn xếp thứ 50/50 ở lớp. Trong giấc mơ nó luôn mơ đứng đầu lớp cho oai chứ không mơ tiến lên vài bậc, xép thứ 40-45 chẳng hạn. Dễ hiểu tại sao lớp vô sản đầu tiên lại có khẩu hiệu “Trí Phú Địa Hào. Đào tận gốc trốc tận rễ” Chẳng qua vì Trí Phú Địa Hào là 4 cái khát khao nhất của họ, cho nên khi cướp được quyền là họ lao ngay vào cuộc tranh giành để trở thành Trí Phú Địa Hào như bấy lâu khao khát. “Bao nhiêu lội quyền ắt qua tay mình” chẳng phải đã thành cái cần câu nhử tất cả những kẻ khát khao đó hay sao? Khi có quyền họ biến ngay thành Phú Địa Hào vì 3 thứ đó cướp được dễ dàng. Chỉ có cái Trí thì khó mà cướp ngay được nên thực hiện sau cùng, lắm của nhiều tiền rồi cũng phải mua lấy cái bằng …Tiến sĩ!
Để kết thúc câu chuyện bàn luận cho vui này, xin đọc lại bài thơ “Bài ca Trí Phú Địa Hào”:
               Bài ca TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO
Bốn anh Trí Phú Địa Hào
Chỉ riêng anh Trí lao đao đến giờ
Đảng ta thương Trí ngu ngơ
Cho CÔNG-NÔNG-TRÍ chung cờ liên minh
Trông lên LIỀM-BÚA hai hình
Trí ta vẫn chẳng thấy mình ở đâu
Quay sang tìm Phú, Địa, Hào
Thấy ba bụng phệ …đã vào…Đảng ta!
(HSP-1996)

Căng thẳng giữa Đức, Việt Nam, Slovakia – Trịnh Xuân Thanh bị đưa về nước từ Slovakia bằng chuyên cơ chở ông Tô Lâm?


Căng thẳng giữa Đức, Việt Nam, Slovakia – Trịnh Xuân Thanh bị đưa về nước từ Slovakia bằng chuyên cơ chở ông Tô Lâm?

Hiếu Bá Linh, tổng hợp
30-4-2018

Ảnh chụp bản tin của hãng thông tấn SITA của Slovakia ngày 29/04/2018, với hình ông Pellergrini Thủ tướng Slovakia

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh gây căng thẳng quan hệ ngoại giao Đức – Slovakia – Việt Nam. Trịnh Xuân Thanh bị đưa về nước từ Slovakia bằng chuyên cơ chở ông Tô Lâm?
Ông Peter Pellegrini, Thủ tướng Slovakia sẽ đến nước Đức vào thứ Tư tới. Ông có những cuộc họp đã được lên kế hoạch với Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier và Thủ tướng Đức Angela Merkel. Một trong những nội dung của các cuộc họp sẽ là vấn đề vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Báo Pravda nhấn mạnh, vụ bắt cóc này đã dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa Đức và Việt Nam, và hơn thế nữa, giờ đây nó gây căng thẳng đối với quan hệ ngoại giao giữa Đức và Slovakia cũng như giữa Slovakia và Việt Nam. 
Hôm nay ngày 29/014/2018 hãng thông tấn SITA của Slovakia ra một bản tin của với tựa đề “Thủ tướng Pellegrini tìm hiểu thông tin về vụ bắt cóc một quan chức Việt Nam từ Đức”. Bản tin này cho biết, Thủ tướng Peter Pellegrini đặt câu hỏi, liệu Cộng hòa Slovakia có tham gia vụ bắt cóc quan chức Việt Nam Trịnh Xuân Thanh, là người bị bắt cóc từ Đức về Việt Nam hay không.
Thủ tướng Pellegrini nói: “Tôi sẽ tiếp tục thông tin trong vài ngày tới, điều quan trọng là loại trừ mọi nghi ngờ. Tôi phải tìm hiểu tất cả các chi tiết, cho đến nay tôi không có thông tin chi tiết. Bộ Nội vụ Slovakia cũng liên lạc với phía Việt Nam để kiểm tra thành phần của đoàn Việt Nam và xác định xem có ai khác trên chuyên cơ của Việt Nam hay không. Tôi không muốn có tiếng xấu ở Slovakia”.
Trong khi đó tờ Pravda ra ngày 29/04/2018 đưa tin, ông Robert Kalinak, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia, nói rằng, ông không biết gì về một người Việt Nam bị bắt cóc có mặt trên chuyên cơ của Chính phủ Việt Nam. Ông Robert Kalinak, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia, chính là nhân vật tiếp đón và họp với phái đoàn cao cấp Công an Việt Nam, trong đó có ông Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam và Trung Tướng Đường Minh Hưng – nghi phạm chính và là đầu não của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Cuộc họp diễn ra vào ngày 26/07/2017 (đúng 3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc) tại khách sạn Borik ở Bratislava, thủ đô Slovakia, khách sạn này nằm dưới sự quản lý trực tiếp của chính phủ Slovakia. Đặc biệt một số nghi phạm tham gia vụ bắt cóc này đã thuê một chiếc xe từ Praha để lái đến Bratislava và đã đậu trong bãi đậu xe của khách sạn Borik trong ngày này – theo dữ liệu của hệ thống định vị GPS trang bị trong chiếc xe này mà các nhà điều tra thu thập được. Các nghi phạm này không tham dự cuộc họp nói trên, có lẽ nhiệm vụ của họ là chở Trịnh Xuân Thanh đến đây. (Xem bài tường thuật chi tiết từ báo Tiếng Dân tại đây).
Ngày 28/04/2018, người phát ngôn của Bộ Nội vụ Slovakia đã trả lời hãng thông tấn TASR, về việc các hãng truyền thông Đức đưa tin việc Bộ trưởng Công an Việt Nam thăm Slovakia nhưng có thể liên quan đến việc bắt người không hợp pháp tại Đức.
Chúng tôi rất lo ngại thực tế có thể là chuyến thăm Slovakia của Bộ trưởng Công an Tô Lâm của Việt Nam có thể bị lợi dụng vào việc việc không trong sạch. Chúng tôi (Slovakia-Đức) đã cùng hợp tác và xử lý vấn đề này một cách chặt chẽ. Từ tháng tám năm ngoái, Bộ Nội vụ Slovakia đã làm việc chặt chẽ với các đồng nghiệp Đức để làm rõ vấn đề này trong khuôn khổ hỗ trợ pháp lý quốc tế cấp tối cao”, phát ngôn viên của Bộ nội vụ Slovakia cho biết. Theo Bộ nội vụ Slovakia, không phụ thuộc vào việc đây là trường hợp kẻ đào tẩu từ Việt nam và bị truy tố tội tham nhũng 130 triệu đô la.
Phát ngôn viên của Bộ nội vụ Slovakia nói: “Nếu thông tin được xác nhận bởi các nhà chức trách Đức, nó sẽ được xem như một biểu hiện của sự không đứng đắn trong hợp tác của phía Việt Nam, lạm dụng lòng hiếu khách của chúng tôi để làm những việc không đúng pháp luật, họ đã phá vỡ quan hệ hữu nghị và phá hoại quan hệ song phương đang phát triển giữa hai nước
Danh sách phái đoàn cấp cao Công An Việt Nam, gồm 12 người: (Thoibao.de thu thập từ nguồn tin riêng)
  1. Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an
  2. Trung tướng Đường Minh Hưng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an
  3. Trung tướng Lê Mạnh Cường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo (Tổng cục V)
  4. Phạm Văn Hiếu
  5. Lưu Trung Việt
  6. Vũ Quang Dũng
  7. Vũ Hồng Minh
  8. Phạm Minh Tiến
  9. Đào Công Duy
  10. Vũ Trung Kiên
  11. Đặng Tuấn Anh
  12. Nguyễn Thế Đôn

bài báo trên tờ Pravda ra ngày hôm nay 29/04/2018, có hình ông ông Robert Kalinak, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia

Báo Pravda viết rằng, Slovakia có thể đã bị lợi dụng để đưa Trịnh Xuân Thanh về nước bằng chuyên cơ của Chính phủ Việt Nam. Cựu Bộ trưởng Nội vụ Kaliňák nói: “Tôi chỉ có thể bày tỏ lo ngại sâu sắc rằng Bộ trưởng Công an nước CHXHCN Việt Nam có thể đã lợi dụng chuyến thăm và làm việc của Bộ trưởng Công an, nếu điều đó được xác nhận”.
Vụ này gây rắc rối khó xử cho tất cả các bên“, chuyên gia quan hệ quốc tế Alexander Clarkson nói, và ông đặt câu hỏi, việc gì sẽ xảy ra, nếu xác định được rằng Slovakia đã trực tiếp hoặc vô tình tham gia vào vụ bắt cóc. “Bratislava sẽ phải tìm một số câu trả lời“, ông Clarkson nghĩ như vậy.
Nhà phân tích an ninh Milan Žitný thấy, thật điên dại rằng Slovakia hợp tác trong việc bắt cóc một công dân từ một nước láng giềng, chẳng hạn như Đức. Nghiêm trọng hơn, Slovakia là một thành viên của Liên hiệp châu Âu (EU). “Rõ ràng là điều này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chúng ta, nếu điều đó thật sự xảy ra tại Slovakia“, nhà phân tích Milan Žitný nói.
Cựu Bộ trưởng Nội vụ Kaliňák phủ nhận rằng, phía Slovakia biết một người bị bắt cóc ở Đức có thể có mặt trên chuyên cơ của Chính phủ Việt Nam. “Trong danh sách hành khách mà chúng tôi nhận được trước khi phái đoàn Việt Nam đến, không có tên như vậy. Hơn nữa, từ phía Đức không có ai thông báo cho chúng tôi biết rằng, một người nào bị bắt cóc hoặc ngụy trang vận chuyển một bệnh nhân”, cựu Bộ trưởng Kaliňák nói.
Báo Pravda nhấn mạnh, vụ bắt cóc này đã dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa Đức và Việt Nam. Hơn thế nữa, giờ đây nó gây căng thẳng đối với quan hệ ngoại giao giữa Đức và Slovakia cũng như giữa Slovakia và Việt Nam.
Ông Peter Pellegrini, Thủ tướng Slovakia sẽ đến Đức vào thứ Tư tới. Ông có những cuộc họp đã được lên kế hoạch với Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier và Thủ tướng Đức Angela Merkel. Một trong những nội dung các cuộc họp sẽ là vấn đề vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.