Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Lịch sử Đế quốc Ottoman (Phần cuối)

Lịch sử Đế quốc Ottoman (Phần cuối)

biên dịch: hongsonvh 
Đối nội
Trong khi ở phương Tây, ông được gọi là Suleiman “Đại đế” thì thần dân Thổ Nhĩ Kỳ gọi ông là Kanuni Suleiman hay “Nhà làm luật”. Nhà sử học Lord Kinross nhận định:
Suleiman không chỉ là nhà cầm quân tài ba, vị vua giỏi cầm gươm như cha và ông cố của mình. Ông khác với họ ở chỗ ông còn giỏi cả văn trị. Ông là một nhà làm luật vĩ đại, trong mắt của thần dân ông là một bậc đế vương có tâm hồn cao thượng và là một biểu tượng cao cả của công lý.” —Lord Kinross
Thật vậy, Suleiman I đã thực hiện một cuộc cải cách mạnh mẽ về luật pháp trong thời gian trị vì của mình, đổi mới bộ luật Ottoman vốn có từ thế kỷ 14. Tất nhiên, những phần mà ông có thể cải tổ được chỉ là Kanun bao gồm những vấn đề như hình pháp, ruộng đất và thuế;[50] và Thánh luật (Shari’ah) thì theo truyền thống Hồi giáo, Suleiman cũng không thể động tới được. Cụ thể, ông đã tập hợp tất cả những phán quyết và ý kiến của chín vị tiên quânđời trước, loại bỏ các phần trùng lặp và những chỉnh sửa những điều mâu thuẫn, đồng thời cũng khéo léo tránh động chạm đến những điều luật tối thượng của Hồi giáo. Cuối cùng, một bộ luật mới của đế quốc Ottoman mang tên là “Kanun-i Osmani” (Luật Ottoman) ra đời và nó đã tồn tại suốt hơn ba thế kỷ.
Trong bộ luật, ông đặc biệt chú ý cải thiện đời sống của các rayah (người không theo đạo Hồi), nhất là những rayah theo Ki-tô giáo đang phải làm việc trên lãnh địa của các Siphahi. Phần Kanune Rayah, hay “Luật Rayah” của ông đã điều chỉnh lại các khoản thuế đánh lên các rayah đồng thời cải thiện địa vị xã hội của họ. Theo luật của ông, các rayah này được đối xử tốt hơn trước rất nhiều, đến mức nhiều nông nô ở châu Âu đã sang Thổ Nhĩ Kỳ sống để được làm rayah. Đồng thời Suleiman cũng bảo vệ những người dân theo Do Thái giáo. Khoảng cuối năm 1553 hay 1554, theo sự đề nghị của bác sĩ và nha sĩ Moses Hamon, một người Tây Ban Nha theo Do Thái giáo được sultan sủng ái, Suleiman I đã ra chiếu chỉ tố cáo những tin đồn rằng việc người theo đạo Do Thái hay hiến tế người sống là những tin đồn vô căn cứ. Đồng thời, Suleiman I ban hành những luật lệ mới về hình pháp, quy định mức tiền phạt đối với một số tội đặc biệt, đồng thời bãi bỏ tử hình và hình phạt chặt tứ chi đối với một số tội khác. Ông cũng tiến hành cải cách thuế vụ, đánh thuế trên nhiều sản phẩm đa dạng ví dụ như lương thực, gia súc, mỏ, lợi nhuận từ các hoạt động giao dịch,… Đặc biệt những quan lại phạm tội sẽ bị Sultan tịch thu tài sản và ruộng đất.
Giáo dục cũng là một lãnh vực quan trọng mà ông rất quan tâm. Thời đó, các trường học đều do các thánh đường Hồi giáo tài trợ, nhờ đó các được miễn giảm phí khá nhiều so với các trường học châu Âu cùng thời.] Tại kinh đô Constantinopolis, Suleiman cho xây dựng thêm nhiều mekteb (trường tiểu học) dạy trẻ em viết, đọc và giáo lý Hồi giáo. Sau đó, các học sinh sẽ chọn vào học một trong tám Medrese (trường cao đẳng), nơi đó chúng sẽ được dạy các môn ngữ pháp, siêu hình, triết học, thiên văn và thuật chiêm tinh. Ở các medrese cấp cao hơn (trường đại học), những người tốt nghiệp sẽ trở thành các imam (tu sĩ Hồi giáo) hoặc thành các thầy giáo. Các trung tâm giáo dục thường được xây dựng xung quanh các sân nhỏ của các thánh đường Hồi giáo, ngoài ra còn những công trình khác như thư viện, căn tin trường học và phòng ăn tu viện, đài phun nước, nhà bếp và bệnh viện nhằm phục vụ cho các tầng lớp nhân dân.
Hai bà vợ của Suleiman I sinh hạ 8 người con trai, nhưng chỉ có 4 người còn sống qua thập niên 1550 là Mustafa, Selim, Bayezid, và Jihangir. Trong số họ, chỉ có Mustafa không phải là con Hürrem Sultan, nhưng lại là con của Gülbahar Sultan (“hoa hồng mùa xuân”) và có ưu thế hơn các con trai của Hürrem Sultan trong khả năng được thừa kế. Hürrem lo sợ khi Mustafa lên ngôi sẽ giết các con mình. Mustafa còn được xem là hoàng tử tài ba nhất, và được Tể tướng Pargalı İbrahim Pasha ủng hộ
Hürrem ít khi tham gia vào việc chọn thái tử. Dù là vợ Suleiman, bà không ra mặt can dự công việc như Hoàng hậu Anne Boleyn của Anh Quốc đương thời.Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản Hürrem kiểm soát triều chính. Bởi đế quốc thiếu phương thức đúng đắn để chọn người kế vị, việc truyền ngôi thường gắn với cái chết của các hoàng tử tranh chấp ngôi báu nhằm tránh bạo loạn và bất ổn nội bộ. Vì thế, Hürrem lo sợ các con mình sẽ bị hành hình, và dùng cường quyền để loại trừ những người ủng hộ Mustafa.
Thế là, trong cuộc tranh giành quyền lực dường như là chủ mưu của Hürrem, Suleiman giết Ibrahim và phong con rể Hürrem là Rüstem Pasha làm Tể tướng. Năm 1552, khi Rüstem làm tổng chỉ huy trong chiến dịch phạt Ba Tư, âm mưu chống Mustafa bắt đầu. Rüstem sai một trong những cận thần của Suleiman báo cáo về triều đình, vì ông không thân chinh, rằng quân sĩ xem đây là thời điểm thích hợp để đưa hoàng tử Mustafa trẻ tuổi lên ngôi; đồng thời Rüstem tuyên truyền rằng Mustafa đã có ý đồ cướp ngôi. Khi nghe tin, Suleiman rất giận dữ vì tin rằng hoàng tử Mustafa muốn làm phản, và đến hè, khi quân Ottoman rút khỏi Ba Tư, ông triệu Mustafa đến lều ông tại thu lũng Ereğli để cho ông “có thể xử lý tội phạm rồi về kinh đô mà không chút lo sợ”.
Mustafa phải đối mặt với một sự lựa chọn: hoặc là phải đến lều của vua cha và chịu chết; hoặc là sẽ bị kết tội mưu phản nếu từ chối đến trình diện. Cuối cùng, Mustafa chấp nhận đến lều của cha, vì tin rằng các binh sĩ ủng hộ sẽ bảo vệ mình. Busbecq, người đã nghe một người chứng kiến kể lại, đã miêu tả về phút cuối của Mustafa. Khi Mustafa đến lều của cha, các thái giám của Suleiman tấn công Mustafa, và vị hoàng tử trẻ đã chống trả ác liệt. Thấy vậy, Suleiman từ trong buồng hé mặt ra quan sát cuộc giao đấu và “chỉ huy quyết liệt, dữ dằn nhìn các thái giám và nghiêm khắc quở trách sự chần chừ của họ. Thấy vậy, các thái giám chấn chỉnh lại tinh thần, vật Mustafa xuống đất và, thả dây cung xung quanh cổ anh ta, thế là anh ta bị siết cổ chết”.
Vài tháng sau, Jihangir qua đời, nguyên nhân được cho là do thương tiếc người anh khác mẹ Mustafa. Hai hoàng tử còn sống, Bayezid và Selim, đều là tổng trấn các tỉnh của đế quốc. Tuy nhiên, trong vòng vài năm hai anh em đánh lẫn nhau.[83] Với sự giúp đỡ của quân triều đình, Selim đánh bại Bayezid ở Konya năm 1559, khiến Bayezid cùng bốn người con sang Ba Tư lánh nạn. Suleiman cống cho vua Tahmasp I của Ba Tư một số lượng vàng lớn, đổi lại Tahmasp phải xử tử hoặc trao trả Bayezid. Cuối cùng, năm 1561 Tahmasp cho phép đao phủ Thổ thắt cổ Bayezid và 4 người con, mở đường cho Selim lên ngôi 7 năm sau. Ngày 1 tháng 5 năm 1566, Suleiman rời kinh thành Constantinopolis mà thân chinh đánh Hungary. Đến ngày 5/6 tháng 11 năm 1566, ông đột ngột qua đời trước khi quân Ottoman thắng trận Szigetvár ở Hungary
Theo Thomas Keightley, Đại đế Suleiman I là vị vua vĩ đại nhất của đế quốc Ottoman. Có người đã so sánh ông – một vị Hoàng đế tài ba trong thời gian chiến tranh và hoà bình – với Charlemagne. Dưới triều ông, quốc gia Ottoman trở thành một trong những cường quốc trên thế giới về mặt diện tích, tài chính và có sực mạnh quân sự vô địch. Các cuộc bành trướng của Suleiman đã giúp đế quốc kiểm soát được nhiều thành phố quan trọng và nổi tiếng của Hồi giáo: Mecca, Medina, Bagdad; phần lớn Bắc Phi và nhiều vùng đất rộng lớn tại bán đảo Balkan (ngày nay là một phần của Hungary, Croatia và Romania). Với việc ông thêm ngôi mộ của nhà tiên tri Muhammad tại Mecca vào Đế quốc của mình, ông đã xưng làm Padishah-i-Islam, tức “Hoàng đế của Hồi giáo”. Các cuộc chinh phạt của ông tại Balkan đã khiến người Thổ Ottoman trở thành một liệt cường đáng gờm trên cán cân quyền lực tại châu Âu. Đại sứ Busbecq đã nhận xét về “mối họa xâm lược của quân Thổ Nhĩ Kỳ” như sau:
Về phía người Thổ Nhĩ Kỳ là một nguồn tài nguyên dồi dào của một đế quốc hùng mạnh, có sức mạnh không thể bị suy suyển, bách chiến bách thắng trong chiến tranh, dai sức với gian khổ, thống nhất, kỷ luật, cần kiệm và cẩn mật… Thử đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta?… Khi người Thổ Nhĩ Kỳ đã kí hòa ước với Ba Tư thì họ sẽ lao thẳng vào cổ họng chúng ta với toàn bộ sức mạnh Đông phương; thật là một sự kém chuẩn bị mà chúng ta không dám nói…
Thành tích của ông không chỉ được thể hiện trên mặt quân sự. Jean de Thévenot – nhà du hành người Pháp trong một thế kỷ sau đã chứng kiến “một nền tảng nông nghiệp vững chắc của đế quốc, đời sống tốt của người nông dân, sự dồi dào của nông sản và sự ưu việt của tổ chức chính quyền nhà Ottoman”. Những cải cách của Đại đế Suleiman I không những đã mang lại cho ông danh hiệu “Nhà làm luật” mà còn góp phần rất lớn cho sự trường tồn của đế quốc Ottoman sau khi Đại đế Suleiman I qua đời, một thành tựu mà “phải mất đến mấy đời vua sa đoạ sau mới phá hoại được”.
Dưới sự bảo trợ của ông, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, triết học và thần học của đế quốc Ottoman cũng đạt đến thời kì hoàng kim. Ngày nay, đường chân trời ở Bosphorus, và nhiều thành phố của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc là từng thuộc đế quốc Ottoman xưa vẫn còn tồn tại những công trình kiến trúc tuyệt đẹp của Mimar Sinan. Một trong số đó là Thánh đường Hồi giáo Süleymaniye chính là nơi an nghỉ cuối cùng của Đại đế Suleiman I và Hürrem Sultan; họ được mai táng ở hai gian phòng khác nhau trong ngôi thánh đường này.
Ibrahim Pasha
Pargalı İbrahim Pasha là bạn thời nhỏ của Suleiman. Ibrahim xuất thân trong gia đình theo Chính Thống giáo Hy Lạp; thuở nhỏ được học ở trường học nội cung theo chế độ devshirme. Ibrahim được Sultan coi là người hộ vệ đắc lực, phong làm chỉ huy quân túc vệ Hoàng cung, sau đó được thăng làm Tể tướng năm 1523 và thống lĩnh toàn bộ quân đội. Suleiman cũng trao cho Ibrahim chức Chúa đất của các chúa đất (beylerbey) xứ Rumelia, cho Ibrahim quyền định đoạt tất cả miền đất thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ở châu Âu, cũng như quyền điều động binh lính tại lãnh địa ấy trong thời chiến. Theo nhà chép sử thế kỷ 17, Ibrahim đã yêu cầu Suleiman không trao quá nhiều tự trị cho những vùng đất ấy vì lo sợ như vậy sẽ mất an ninh; ông trả lời rằng dưới quyền cai trị của ông, trong bất cứ trường hợp nào Ibrahim cũng không giờ bị phế bỏ. Vào năm 1524, Ahmed Pasha nổi dậy tại Ai Cập, Ibrahim Pasha đã ra quân đánh bại Ahmed Pasha năm 1525.
Vốn đế quốc rất rộng lớn nên Sultan khó thể tự mình gánh vác những trách nhiệm lớn, ông tin tưởng vào Ibrahim như thể vào chính ông vậy. Quyền hạn của Ibrahim trở nên gần như ngang bằng với Padishah. Nhưng về sau Ibrahim Pasha cũng đánh mất lòng tin của ông. Trong 13 năm làm Tể tướng, sự thăng tiến nhanh về quyền lực cũng như gia tài đồ sộ đã khiến cho Ibrahim có thêm nhiều kẻ thù trong số các quan triều đình. Bản báo cáo của Ibrahim với Suleiman về cuộc chiến chống Ba Tư cho thấy sự trơ tráo của Ibrahim: trong đó Ibrahim Pasha tự xưng làm serasker sultan, một việc khiến cho Suleiman cảm thấy mình đặc biệt bị sỉ nhục (ở Ba Tư, các quan Tổng đốc có thể được gọi là Sultan nhưng ở Thổ thì danh hiệu chỉ dành riêng cho Suleiman I).
Sự ngờ vực của Suleiman đối với Ibrahim càng tồi tệ hơn bởi mâu thuẫn giữa Tể tướng với quan “defterdar” (tương đương với Bộ trưởng Tài chính sau này) Iskender Chelebi. Mâu thuẫn này kết thúc với âm mưu ám hại Chelebi, và Ibrahim đã ra sức thuyết phục Suleiman khép viên đại thần này vào tội chết. Tuy nhiên, theo Kinross trong lời nói cuối cùng trước khi bị hành quyết Chelebi đã lên tiếng buộc tội Ibrahim mưu phản, còn tác giả André Cloth cũng cho biết trước khi bị hành quyết, Chelebi lên án Ibrahim cấu kết với người Ba Tư học lật đổ Sultan.
Chelebi bị xử giảo trong khu chợ ở Bagdad. Theo Cloth, đêm sau đó Sultan nằm mộng thấy một người bất hạnh kêu oan và dọa thắt cổ ông. Sultan hoảng hốt và nhanh chóng nghĩ rằng Chelebi vô tội và Ibrahim đã vu cáo defterdar. Mấy tuần sau Suleiman I nhớ lại những lời tố cáo của Chelebi trước khi chết và thấy rõ sự phản bội của Ibrahim. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1536, như thường lệ, Sultan vời Ibrahim đến dùng bữa tối ở Hoàng cung Topkapi. Ông không hề tỏ thái độ nghi kỵ hay bạc đãi quan Tể tướng, mà theo các sử gia bữa ăn đã diễn ra yên tĩnh, như thể vua tôi sẽ gặp nhau vào sáng hôm sau. Ông cũng khuyên Ibrahim ngủ trong căn phòng gần đó, và nói rằng cái nệm thường ngày của Ibrahim đang chờ Tể tướng. Nhưng rồi, sáng hôm sau, cái xác không hồn của Ibrahim được tìm thấy ở cổng Hoàng cung. Người ta không rõ chuyện gì đã xảy ra trong đêm trước, nhưng những vết máu và mảnh áo rách vẫn còn trên tường, chứng tỏ Ibrahim đã chiến đấu dữ dội với các Thái giám điếc được phái tới để giết Tể tướng, buộc họ phải thắt cổ Ibrahim. Gia sản đồ sộ của quan Tể tướng đã bị Triều đình tịch biên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét