Cái chết của Murad
Dựa trên ghi chép lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ, người ta tin rằng vua Murad I đã bị Miloš Obilić – một quý tộc Serbia, ám hại, anh ta đã giả vờ chết, và giết chết vua Thổ khi ông đi trên chiến trường sau khi kết thúc trận đánh. Ngược lại, các nguồn của người Serbia tuyên bố rằng ông đã bị Miloš Obilić ám sát, khi anh ta vào doanh trại quân Thổ với lý do và người đào ngũ, trước khi quỳ xuống trước mặt Murad, anh ta đâm vào bụng ông và giết chết ông. Murad là vị vua nhà Ottoman duy nhất tử trận. Miloš Obilić ngay sau đó bị cận vệ quân của vua nhà Ottoman giết chết. Hoàng tử con trưởng của Murad, Bayezid, ngay lập tức hay tin về cái chết của vua cha, và trong khi trận chiến vẫn đang còn quyết liệt, gọi em mình là Yakub đến và nói với ông rằng vua cha truyền gặp hai người. Khi Yakub đến nơi, ông bị siết cổ đến chết, cái chết của ông khiến cho Bayezid là người kế vị hợp pháp duy nhất.
Lăng mộ của vua Murad I vẫn còn đến ngày nay, ở một góc của chiến trường. Mặc dù không ở trong tình trạng tốt, những nó không bị làm hư hỏng hay phá hủy – bất chấp hàng thế kỷ thù địch giữa người Thổ Nhĩ Kỳ và người Serbia.
Sau trận đánh
Trận Kosovo là một chiến thắng quan trọng của Đế quốc Ottoman. Tuy nhiên, quân đội Ottoman lại rút lui và người Serbia vẫn kiểm soát một phần Kosovo. Trong khi cả hai bên đều tổn thất, thiệt hại nghiêm trọng về phía Serbia đã dẫn đến sự suy sụp thực sự của người Serbia với nhiều, nhưng không phải tất cả, các lãnh chúa phong kiến Serbia triều cống hay cung cấp quân đội cho Đế quốc Ottoman.
Theo sau trận chiến, với cái chết của vua Lazar của người Serbia, Bayezid thiết lập một liên minh chặt chẽ với con trai của Lazar là Stefan. Bayezid kết hôn với em gái của Stefan, và cuộc hôn nhân này khiến Stefan trở thành một đồng minh trung thành của Bayezid, đóng góp cho Bayezid những đội quân quan trọng trong các chiến dịch quân sự của ông sau này, trong số đó có cả trận Nicopolis, cuộc Thập tự chinh lớn cuối cùng ở thời kì Trung Cổ.
Trận Kosovo tiếp tục được xem là một cột mốc trong sự định hình và kiến thiết dân tộc Serbia, cho dù đây là trận chiến giữa Quân đội Ottoman ở Thổ Nhĩ Kỳ với liên minh các quốc gia Cơ Đốc giáo ở châu Âu. Trận Kosovo mãi mãi là biểu tượng của tinh thần yêu nước Serbia và khát vọng độc lập qua hàng thế kỷ dưới quyền thống trị của Đế quốc Ottoman, và điều đó có nghĩa là trong cái nhìn của dân tộc Serbia, đây vẫn là một chứng cớ quan trọng trong Chiến tranh Kosovo và lời tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào tháng 1 năm 2008 của Kosovo. Ngược lại với tuyên bố độc lập này, người Serb cho rằng, một phần là do trận Kosovo, rằng Kosovo vẫn là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời của Serbia.
Trận Nikopolis năm 1396 (*)
Trận Nikopolis nổ ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1396, trong trận này, Đế quốc Ottoman và Serbia đánh cho liên minh Hungary, Đế quốc La Mã Thần thánh, Pháp, Wallachia, Ba Lan và Vương quốc Anh, Vương quốc Scotland, Liên minh Thụy Sĩ cũ, Cộng hòa Venezia, Cộng hòa Genoa và Các hiệp sĩ thánh Gioan đại bại gần pháo đài Nikopolis (nay là Nikopolis, Bulgaria) tại sông Donau. Trận này cũng được xem là Cuộc Thập tự chinh Nikopolis, cuộc thập tự chinh lớn cuối cùng ở thời kì Trung Cổ. Trận đánh cũng thỉnh thoảng được xem là đã nổ ra ngày 28 tháng 9 năm 1396. Sau khi quân Thập tự không thể hạ nổi phòng tuyến của người Ottoman, Sultan Bayezid I đã đánh úp họ. Cho dù đắt giá, đây là một chiến thắng toàn diện và vẻ vang của Đế quốc Ottoman, với phần lớn Thập Tự Quân bị loại khỏi vòng chiến. Trong khi nhiều binh sĩ Thập tự bị chết đuối khi tháo chạy, rất nhiều binh sĩ khác bị bắt làm tù binh (trong đó có cả Thống chế Pháp là Jean Le Maingre nhưng ông được trao trả sau thảm bại). Nhà viết sử biên niên Jean Froissait đã nhận xét rằng, từ thảm họa Roncesvalles tới thời điểm đó, chưa bao giờ quân đội Thiên chúa giáo chịu thương vong nặng nề như vậy.
Đại thắng này đã củng cố thế lực của Đế quốc Ottoman ở miền Đông Nam Âu và gia tăng thanh thế của Bayezid I. Thắng lớn, ông được người Hồi giáo nhìn nhận như là một ghazi (“thần binh”). Không những gây cho người châu Âu càng kinh sợ người Ottoman hơn, thắng lợi vang dội này mang lại uy thế cho Đế quốc Ottoman trong thế giới Hồi giáo.[12] Vốn đang vây hãm kinh thành Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã, bằng đại thắng Nicopolis ông không những nắm chắc vùng Balkan mà còn xóa tan mọi hy vọng giải nguy cho Constantinopolis của người Tây Âu. Đối với nước Pháp, thất bại này trở thành một thảm họa cho họ, với tổn thất nặng nề của quân tinh nhuệ Pháp.
Trận Ankara năm 1402 (*)
Tranh của Stanisław Chlebowski, Hoàng đế Bayezid bị Timur tống giam, 1878, miêu tả cảnh Timur bắt giữ Bayezid
Trận Ankara hay Trận Angora, diễn ra vào ngày 20 tháng 7, 1402, tại cánh đồng Çubuk (gần Ankara) giữa quân Ottoman của sultan Beyazid I và quân Mông Cổ-Thổ Nhĩ Kỳ của hoàng đế Timur của Đế quốc Timur. Trận đánh kết thúc với thảm bại của quân đội Ottoman
Là lãnh tụ của quân Mông Cổ-Thổ Nhĩ Kỳ, Timur là người thống trị châu Á mạnh nhất kể từ thời Thành Cát Tư Hãn. Ông xuất thân từ một chi của một gia đình quý tộc Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ ở Turkestan và qua những cuộc chiến không ngừng nghỉ, ông cố phục hồi lại Đế quốc Mông Cổ.
Timur đã chinh phạt các vương quốc Gruzia và Armenia năm 1390, mở rộng đế chế của mình đến biên giới của Đế quốc Ottoman. Hai thế lực nhanh chóng giao tranh trực diện. Sultan Đế quốc Ottoman là Beyazid I đòi một tiểu vương Thổ Nhĩ Kỳ phải triều cống, người đã phục tùng Timur và bị đe dọa xâm lược. Timur cho rằng hành động này là một sự xúc phạm đối với bản thân mình và năm 1400 tiến hành cướp phá một thành phố Ottoman là Sebaste (ngày nay là Sivas). Beyazid đã bị một đòn đau và khi Timur tấn công Tiểu Á từ phía Đông, Beyazid triệu tập quân của mình và đe dọa quân Timur ở gần Ankara. Trận chiến này nói chung là đỉnh điểm trong những năm Timur và Beyazid gửi cho nhau những bức thư xúc phạm đối thủ.
Quân số hai bên khá tương đồn. Kể cả những người chứng kiến tận mắt cho rằng đội quân của Timur lên đến hơn 1 triệu người, quân số thực tế có lẽ vào khoảng 200.000 lính. Trong khi quân Bayezid cũng tương đương với quân Timur, đa phần là bộ binh và có 20.000 kỵ binh Serbia do Hoàng tử Stefan Lazarevic chỉ huy. Quân Timur hầu hết được bao quanh bởi vài con voi Ấn Độ
Trận chiến bắt đầu với một cuộc tổng tấn công của quân Ottoman, bị phản công bằng một cơn mưa tên từ kỵ binh bắn cung của Timur. Vài nghìn quân bị giết và nhiều lính đầu hàng Timur. Trong trận chiến, nguồn nước cung cấp cho cả hai quân đội, Cubuk Creek bắt nguồn từ một con hồ chứa nước nhỏ ở gần thị trấn Cubuk do quân Timur chiếm giữ, khiến cho quân Ottoman không còn nước. Trận chiến cuối cùng diễn ra trên đồi Catal, bao quát thung lũng Cubuk. Quân đội Ottoman, khát và mệt mỏi, mặc dù Bayezid đã chạy được đến dãy núi gần đó với vài trăm quân ky. Tuy vậy, Timur có những dãy núi bao quyanh và vượt trội về quân số so với Bayezid, nên nhanh chóng bắt được ông ta. Quân đội Ottoman vẫn đủ mạnh khi bắt đầu, nhưng sau đó người Tatar và người Sihahi từ các vương quốc Tiểu Á bở lại Bayezid rồi đầu hàng quân Timur, phá vỡ hai sườn của quân Ottoman.
Các quốc gia châu Âu, ban đầu, ủng hộ cuộc xâm lược của đế quốc Timur và người Genova đã treo cờ của Mông Cổ trên các bức tường thành Galata để ủng hộ Timur. Tuy vậy, vài tháng sau khi Đế quốc Ottoman bại trận tại Tiểu Á, nỗi lo sợ trở thành mục tiêu tiếp theo sớm thu hút sự chú ý của người dân Châu Âu.
Là thảm bại của quân đội Ottoman, trận Ankara có hiệu quả tức thời đối với nền chính trị Balkan, khi đó Đế quốc Ottoman đang nắm quyền chủ động. Do cuộc xâm lược của Timurid, cuộc vây hãm Constantinople bị chấm dứt và quân Ottoman rút khỏi Balkan để đương đầu với mối đa dọa mới.
Sự kiện này đã chia rẽ Đế quốc Ottoman thành nhiều phe phái vì các con trai của Beyazid vẫn còn sống và tự do sau khi chính ông ta bị bắt. Phần lớn người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman chạy trốn đến châu Âu. Điều này dẫn đến cuộc nội chiến giữa bốn người con trai của Bayezid. Sự suy yếu tạm thời của Ottoman làm sự sụp đổ của Đế quốc Byzantine và cuộc xâm lược Balkan của chậm lại một thời gian.
Sultan Mehmed II (*)
Mehmed II (Tiếng Thổ Ottoman: Mehmet) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng 9 năm 1446, và sau đó là từ tháng 2 năm 1451 tới 1481. Ở tuổi 21, ông chinh phạt Constantinopolis, dẫn tới sự sụp đổ của Đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu. Sau đó, ông hợp nhất chính sách trị dân cũ của Đông La Mã với chính sách trị dân của nhà Ottoman. Mehmet II không được xem là vị vua người dân tộc Turk đầu tiên của Constantinopolis, nhưng không lạ gì vì trước ông, Leo IV người Khazar, theo đạo Thiên Chúa, là Hoàng đế La Mã trên danh nghĩa. Ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ông còn nói được các tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý,…
Thiếu thời
Mehmed II là con trai thứ ba của Murad II (1404 – 1451), vị vua thứ sáu của Đế quốc Ottoman. Ngay từ nhỏ, Mehmed đã là một đứa trẻ khỏe mạnh và lanh lợi, trong khi đó những người anh trước của ông thường hay gầy yếu bệnh tật. Vì vậy, dù mẹ của Mehmed, Huma Hatun chỉ là một nữ nô, Mehmed lại được cha đặc biệt thương yêu và tin tưởng, chính Murad đã lấy tên cha mình là vua Mehmed I (1413-1420) để đặt cho con trai mình, với mong muốn đứa trẻ sau này sẽ làm nên nghiệp lớn như người ông nội của nó.[4] Khi Mehmed vừa bập bẹ biết nói thì Murad đã vời các thầy giáo giỏi nhất nước vào làm gia sư cho con trai mình. Tiếp theo, Murad II sắp xếp cho Mehmed vào học một trường học đặc biệt ở nội cung, đó cũng là nơi học của con cháu của các nhà quý tộc hoặc những đứa trẻ thông minh lanh lợi, con của các tù binh. Việc này nhằm giúp cho Mehmed kết giao với những người bạn tài năng để sau này họ sẽ giúp đỡ ông làm nên nghiệp lớn. Đồng thời, khi bắt đầu trưởng thành thì Mehmed được vua cha cử đi làm tổng trấn tỉnh Manisa tại Tiểu Á để học tập kinh nghiệm trị quốc.
Trị vì lần đầu (1444 – 1446)
Năm 1444, Murad II đã cảm thấy quá mệt mỏi với các công việc triều chính và chiến tranh nên quyết định về phủ Manisa an hưởng tuổi già, và truyền ngôi cho Mehmed. Về phần vua con, được sự giúp đỡ của các thầy học và các đại thần, ông dần dần đã nắm được cách trị vì đất nước. Nhưng giữa lúc đó thì một sự biến quan trọng xảy ra: vua Władysław III của Ba Lan và Hungary gây chiến. Ông này trước đây đã phát động Thập tự chinh đánh bại quân Ottoman và kí hòa ước Segedin với Murad, nay nhân cơ hội Mehmed còn nhỏ tuổi liền cất binh, xé bỏ hòa ước Segedin, lấy cớ là hòa ước này do Władysław ký với Murad và khi Murad đã thoái vị thì nó không còn hiệu lực nữa. Được cộng hòa Venezia, Giáo hoàng, hoàng đế Đông La Mã và một số thế lực châu Âu khác ủng hộ, Władysław III đã tổ chức được một cuộc Thập tự chinh lớn. Thập tự quân nhanh chóng tiến sâu vào lãnh thổ Ottoman và áp sát trọng trấn Varna nằm trên bờ Hắc Hải. Đồng thời, một số quan lại địa phương cũng nhân cơ hội tuyên bố độc lập.
Trước tình hình đó, Mehmed buộc phải vội vã phi ngựa tới phủ Manisa mời vua cha về chấp chính. Sau đó, Murad II đã xuất quân đánh tan tác đạo Thập tự quân tại trận Varna (1444), Władysław III cũng tử trận. Mối họa xâm lược bị đẩy lùi. Sang năm sau, Murad II lại trao quyền cho vua con rồi quay về Manisa.
Tuy nhiên, một bộ phận Cấm vệ quân Janissary lại nổi loạn, tỏ ý không phục ấu chúa và đòi Murad quay trở lại ngôi vị. Không còn cách nào khác, tháng 5 năm 1446 Mehmed II lại phải đích thân ra Manisa mời vua cha về lên ngôi thêm một lần nữa.
Khoảng thời gian chuẩn bị tích cực cho việc kế ngôi (1446 – 1451)
Sau hai cuộc phong ba nói trên, Mehmed cảm thấy rất rõ là với trình độ hiện có của mình, việc cai trị một tỉnh nhỏ thì được chứ cai trị một đất nước rộng lớn thì rõ ràng là ông chưa đủ sức. Vì vậy, sau đó ông đã ra sức học hỏi thêm kiến thức và chăm chỉ làm việc để bồi dưỡng kinh nghiệm cho mình.
Trong thời gian này, Mehmed đọc rất nhiều truyện ký về Alexandros Đại đế cũng như các tướng lĩnh La Mã nổi tiếng để từ đó rút ra kinh nghiệm về cách trị quốc cũng như các tri thức quân sự , chiến thuật, chiến lược, hậu cần… Ông cũng ra sức học thêm nhiều ngôn ngữ, ví dụ tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý v.v… vì ông ý thức rõ rằng, quốc gia Ottoman nằm giáp giới giữa châu Âu và châu Á nên tình hình dân tộc và ngôn ngữ ở khu vực này khá đa dạng và phức tạp. Ngoài ra ông cũng rất yêu thích thi ca, thuộc lòng các bài thơ cổ Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, bản thân Mehmed cũng là một nhà thơ. Mehmed còn là một người làm vườn giỏi, ông thường thư giãn bằng cách trồng tỉa vườn hoa và vườn cây ăn quả ở nội cung.
Triết học cũng thu hút niềm yêu thích của Mehmed, nhất là triết học Aristotle và triết học Khắc kỉ (Stoicism). Dần dần, sau năm năm, Mehmed từ một thiếu niên còn rất ngây thơ đã trở thành một thanh niên tài năng có học vấn rất uyên bác.
Trị vì lần thứ hai (1451 – 1481)
Ngày 18 tháng 2 năm 1451, Murad II lâm bệnh và qua đời tại Edirne. Mehmed hay tin, lập tức cùng những người thân tín phi ngựa bất kể ngày đêm đến thủ đô, chấm dứt bổn phận của tổng trấn Manisa. Ngày 18 tháng 2 năm 1451, ông lên ngôi ở Edirne, trở thành vua thứ bảy của đế quốc Ottoman. Ngay ngày hôm đó, Mehmed đã hạ lệnh giết chết một người em trai cùng cha khác mẹ mới tám tháng tuổi của mình vì người em trai này, con của Murad II với một công chúa người Serbia, là một kẻ thù tiềm tàng trong việc tranh ngôi của Mehmed II. Vài năm sau ông còn ra một chiếu thư mà khiến ai cũng rùng mình, quy định rằng các hoàng đế nhà Ottoman có quyền giết chết các anh em của mình để duy trì hoàng vị và an ninh quốc gia.[4] Đây cũng là cơ sở cho các cuộc nồi da xáo thịt trong hoàng tộc Osman sau này. Từ đó, Mehmed hoàn toàn thay đổi cá tính, từ một con người nho nhã nhu nhược trở thành kẻ quyết tâm dùng cường quyền để mở rộng và củng cố nền thống trị của mình.
Mở rộng bờ cõi
xem bài Sự thất thủ Constantinopolis
Một trong những mục tiêu đầu tiên mà Mehmed II nhắm tới chính là lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã, lúc này chỉ còn kinh đô Constantinopolis và một số vùng phụ cận nhỏ xung quanh. Tới lúc Mehmed II lên ngôi, đế quốc Ottoman đã có lãnh thổ hết sức to lớn nằm vắt ngang châu Âu và châu Á. Tuy nhiên, tại trung tâm của đế quốc vẫn tồn tại lãnh thổ chưa chịu khuất phục của người Byzantine. Sự tồn tại này của chẳng khác chi một cây đinh đóng chặt vào ngay giữa quả tim của đế quốc. Vì vậy các vua nhà Ottoman đã từng nhiều lần có ý đồ nhổ bỏ chiếc đinh này khỏi lãnh thổ của mình. Ông cố của Mehmed là Bayezid I (1389 – 1402) đã từng mấy lần đem quân vây đánh Constantinopolis. Cha của Mehmed là Murad II cũng đã từng có lần bao vây ngôi thành suốt hai tháng. Nhưng vì địa thế hiểm trở cũng như sự vững chãi của các tường thành mà tất cả những nỗ lực này đều không thành công. Nay Mehmed II một lần nữa chuẩn bị lực lượng vây đánh Constantinopolis, quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ. Vì vậy không ngạc nhiên khi Mehmed rất khát khao làm chủ được Constantinopolis và biến nó thành thủ đô của Hồi giáo, điều này thể hiện qua hai câu nói:
“Trẫm chỉ có một mong muốn duy nhất. Hãy tặng Constantinopolis cho trẫm.”—Mehmed II,
“Thời đại hiện nay đã thay đổi rồi, ta muốn đi từ phía Đông sang phía Tây, cũng giống như trước kia người Tây phương đi đến Đông phương. Trên thế giới này chỉ có thể có một đế quốc, chỉ có thể có một tôn giáo, chỉ có thể có một vương quốc. Muốn thực hiện được sự liên hệ đó thì trên đời này không có địa phương nào thích hợp hơn là Constantinopolis.”—Mehmed II
Năm 1451, Mehmed ráo riết củng cố hải quân Ottoman, và chuẩn bị cuộc chinh phạt Constantinopolis. Ở eo biển Bosporus chật hẹp, trước kia Bayezid I đã xây thành Anadoluhisarı ở phần châu Á; Mehmed dựng nên một ngôi thành vững chắc hơn, Rumelihisarı ở phần châu Âu, thế là ông hoàn toàn làm chủ eo biển Bosporus. Để xây ngôi thành này, Mehmet hạ lệnh đánh thuế lên những chiếc thuyền chạy trong phạm vi tầm ngắm của đại bác họ. Một tàu thuỷ Venezia đòi ông phải ngưng làm việc đó, bị bắn và chìm nghỉm.
Ngày 6 tháng 4 năm 1453, Mehmed II và quân đội bắt đầu vây thành Constantinopolis. Ngày 29 tháng 5 năm 1453, Mehmed và quân đội đến sát chân thành nhưng đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân hoàng đế Constantinus XI. Nhưng với ưu thế quá vượt trội về quân số cũng như trang bị, sau những cuộc giao chiến khốc liệt, quân Ottoman cuối cùng cũng tràn được vào thành.[5] Tuyệt vọng, hoàng đế Constantinus XI thốt lên: “Thành đã mất thì ta còn sống làm gì nữa!” rồi xông thẳng vào biển quân Ottoman và hy sinh. Thế là thành Constantinopolis thất thủ. Quân Ottoman tàn phá ngôi thành và bắt 6000 người làm nô lệ. Nhưng sau đó, Mehmed thiên đô về Constantinopolis. Ngày 30 tháng 5 năm 1453, Mehmed chuyển đại thánh đường St. Sophia thành một Hagia Sophia, một thánh đường Hồi giáo, và bắt đầu xây dựng tân đô của Đế quốc.
Sau chiến thắng Constantinopolis, Mehmed II xưng hiệu “Hoàng đế La Mã” (Kayser-i Rûm), dù điều này không được công nhận bởi các vương quốc Tây Âu, giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp hay các cộng đồng người Hy Lạp khác. 10 năm sau khi chinh phạt thành Constantinopolis, Sultan Mehmed II thân hành đến di tích thành cũ Troia và tuyên bố rằng ông đã rửa hận cho người thành Troia bằng việc chinh phạt người Hy Lạp – ở đây chỉ người Đông La Mã.
Chinh chiến ở châu Á
Cuộc chinh phạt Constantinopolis khiến cho Mehmed II chuyển sự chú ý của mình sang phía đông. Trước đó, ông cố của Mehmed là Bayezid I đã thống nhất được Tiểu Á, nhưng cuộc tấn công của Đế quốc Timur đã phá nát Vương quốc Ottoman và khiến các vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Đông bán đảo Tiểu Á ly khai trở lại. Chính vì vậy, Mehmed II quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ. Trước hết, ông chinh phạt các xứ của người Thổ, sau đó tiến lên phía Bắc và tiêu diệt Đế quốc Trebizond của người Đông La Mã vào năm 1461. Tiếp theo, Mehmed lại đánh nhau với xứ Ak Konyulu (hay còn được gọi là White Sheep) đang thống trị khu vực Đông Tiểu Á và Armenia. Lúc bấy giờ, với mục đích giảm nhẹ áp lực của Đế quốc Ottoman lên các thuộc địa của mình tại bán đảo Balkan, Cộng hòa Venezia đã xúi giục vua Ak Konyulu là Uzun Hasan gây chiến với Mehmed, đồng thời viện trợ vũ khí cho Hasan. Để đối phó với Hasan, Mehmed II đã phải huy động một đạo quân hùng mạnh với rất nhiều nhân lực và vật lực của toàn đế quốc, ngay cả hai người con trai là Mustafa và Bayezid cùng với quan chưởng ấn cũng trực tiếp tham gia chiến đấu.[4] Cuối cùng, quân Ottoman đại thắng trong trận Otlukbeli năm 1473.
Đến đây, Mehmed II đã nắm được quyền kiểm soát toàn bộ vùng Tiểu Á, đồng thời xây dựng vùng này thành khu vực trung tâm của đế quốc Ottoman và cả nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Thật vậy, những chiến thắng quân sự liên tiếp của Đế quốc Ottoman đã biến người Thổ Nhĩ Kỳ từ một ngoại tộc thành dân tộc chủ thể của Tiểu Á. Có thể nói, việc chinh phạt của Mehmed tại châu Á đã xúc tiến cho sự thành hình của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.[4]
Chinh chiến ở châu Âu
Tiếp đó, năm 1460 Mehmed II lại xua quân xâm chiếm lãnh địa của người Đông La Mã ở châu Âu là Morea trên bán đảo Peloponnese. Đến năm sau, Mehmed lại xâm chiếm Đế quốc Trebizond ở châu Á. Kết quả là hai lãnh địa cuối cùng của người Đông La Mã đều nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Ottoman. Cuộc chinh phạt Constantinopolis đã đem lại niềm vinh dự và thanh thế lớn cho người Thổ Nhĩ Kỳ.
Quân Ottoman tiến về Đông Âu, tới cửa ngõ Beograd và bắt đầu nỗ lực đánh chiếm thành phố này từ tay Đại tướng Janós Hunyadi trong Cuộc vây hãm Beograd năm 1456. Các võ tướng Hungary giữ được thành, quân Ottoman phải triệt binh với tổn thất nặng nề. Dù vậy, cuối cùng thì người Thổ cũng chiếm được hầu hết Serbia.
Năm sau (1463), sau một cuộc tranh chấp về cống vật của vương quốc Bosnia, Mehmed đã chinh phạt Bosnia và nhanh chóng toàn thắng, vua cuối cùng của Bosnia là Stjepan Tomasevic bại vong.
Ông cũng gây chiến với chư hầu cũ của mình là vương công Vlad III Dracula xứ Wallachia. Năm 1462 Mehmed II đã gặt hái thảm bại khi bị Vlad tấn công trong cuộc tấn công ban đêm. Thế rồi, Mehmed chuyển sang giúp đỡ anh trai Vlad là Radu để trả thù cho những thất bại của quân đội Ottoman trên mặt trận. Với sự hỗ trợ của người Thổ, Radu nhanh chóng tước đoạt lãnh địa Wallachia trong cùng năm đó và buộc Vlad phải chạy trốn khỏi Wallachia.
Năm 1475, quân Ottoman giao chiến với Moldavia và bị Vương công Stefan III đánh tan tành trong trận Vaslui. Tuy nhiên đến năm 1476 Mehmed trả được thù khi tiêu diệt gần như hoàn toàn quân đội ít ỏi của Moldavia trong trận Valea Albă. Tiếp đó ông tiến quân đến Suceava và cướp bóc, tàn phá thủ phủ của vùng này, mặc dù sau đó ông đã thất bại trong việc đánh chiếm lâu đài Suceava và pháo đài Piatra Neamţ. Đúng lúc đó thì một trận dịch bùng lên trong hàng ngũ quân Ottoman, đồng thời với nguồn nước trở nên thiếu hụt và Vương công Stefan III lại nhận được 3 vạn viện binh do cựu thù của Mehmed, Vlad III Dracula chỉ huy. Mehmed II buộc phải bỏ dở chiến dịch và quân đội Ottoman triệt thoái.
Năm 1480, Mehmed II chinh phạt bán đảo Ý, để thực hiện mưu đồ “thống nhất Đế quốc La Mã cổ đại” của Mehmed. Thoạt đầu, quân Ottoman dễ dàng đánh chiếm thành phố Otranto vào năm 1480, nhưng ngay năm sau (1481) quân đội của Giáo hoàng đã đoạt lại vùng này sau khi Mehmed qua đời.
Trong những năm 1443 – 1468, Đế quốc Ottoman phải đối phó với cuộc khởi nghĩa của nhân dân Albania do Skanderbeg lãnh đạo. Skanderbeg nguyên là một nhà quý tộc Albania và là đại diện của nhà Ottoman tại Albania dưới thời Murad II. Nhưng thay vì phục vụ cho sultan, Skanderbeg đã vùng lên khởi nghĩa và cố gắng lôi kéo lực lượng của các hoàng thân Albania yêu nước, nhắm cùng đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Ottoman. Cuộc khởi nghĩa này đã ngăn trở mưu đồ tấn công vào bán đảo Ý của Đế quốc Ottoman trong suốt một thời gian dài.
Kết quả
Những cuộc chiến của Mehmed II tại châu Âu chứng tỏ sự hiện diện của người Thổ ở đó không phải là nhất thời. Dưới thời Mehmed II, quân Ottoman chưa thể chiếm ưu thế trội hơn hẳn quân các nước vùng Balkan, nhưng cuộc chiến hãy còn tiếp diễn.
Kết quả của các cuộc chinh phạt trên là Mehmed đã nắm trong tay một Đế quốc Ottoman hết sức rộng lớn, gồm 28 tỉnh ở châu Âu và 21 tỉnh ở châu Á, bao trùm các phần đất của Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, Albania, Armenia và một phần Ukraina. Đến cuối đời, Mehmet bắt đầu sử dụng danh xưng “chúa tể của hai đất và hai biển” (hai đất là Tiểu Á và Romania, hai biển là Aegean và Hắc Hải).
Mehmed II sở dĩ có thể liên tục chiến thắng trên chiến trường, một phần là vì các đối thủ của ông là những thế lực phong kiến cát cứ hoặc các vương triều già nua đang suy sụp, nhưng cũng là nhờ ông có những biện pháp cai trị đất nước và quản lý quân đội rất hữu hiệu. Trong mọi sự vụ, ông luôn cực lực bài trừ thái độ lề mề chậm chạp, thiếu khí thế của các quan chức và luôn chú ý đến hiệu quả thực tế của công việc. Ông đã hợp nhất chính sách trị dân cũ của hoàng đế Đông La Mã với chính sách trị dân của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Mehmed còn viết một cuốn sách tổng hợp các học thuyết chính trị ở Đông La Mã và trong sách này, thuật ngữ ‘chính trị’ được dịch sang tiếng Ả Rập như “siyasah”.
Ngay trong năm đầu tiên cai trị, Mehmed II đã bắt tay vào cải tổ các cơ quan của triều đình, đặc biệt là ngân khố của quốc gia. Ông ra lệnh cho các quan viên thu thuế phải kiểm tra kỹ lưỡng sổ sách, rồi lại phái người đến kiểm tra các sổ sách này thêm một lần nữa. Bất cứ quan viên nào để sổ sách không rõ ràng đều bị cách chức chờ xét xử. Các cơ quan triều đình và địa phương cũng được cải tổ sâu rộng. Mehmet quy định ba cơ quan: Phủ Thái tể, Văn phòng Tài vụ Đại thần và Văn phòng Chánh án Tối cao đều có quyền lấy danh nghĩa hoàng đế để ra các mệnh lệnh về hành chính, tài chính và tôn giáo. Tất cả những điều lệ về triều phục, địa vị, đãi ngộ,… của các quan viên đều được quy định chặt chẽ và ghi chép trong sách Nghi lễ.
Lúc này, triều đình Ottoman chia các quan chức ra làm hai loại: Nhân viên Nội đình bao gồm các sở Nội, Đốc sát, Tài chính, Đại sảnh, Tiểu sảnh chuyên lo việc sinh hoạt của hoàng đế và sinh hoạt trong cung, đảm nhiệm bởi các thái giám mặc áo dài trắng; nhân viên Ngoại đình gồm cố vấn của hoàng đế, thị vệ và các nhân viên triều đình chuyên lo việc sự vụ đất nước. Ở Trung ương gọi là hội nghị Quốc vụ, thành viên gồm cả tể tướng, chánh án Tối cao, tài chính Đại thần và thư ký Quốc vụ. Cơ quan này sẽ họp bàn với vua trong vòng mấy tiếng đồng hồ vào mỗi thứ bảy, chủ nhật, thứ hai và thứ ba hàng tuần. Còn ở sự vụ ở địa phương, bao gồm cả việc trưng binh trong thời chiến sẽ do những viên tổng trấn đảm nhiệm.
Về quân sự, Mehmed II cũng tiến hành nhiều cải cách. Dưới triều của ông, quân đội Ottoman mới được chia làm bộ binh (Akincis), kỵ binh và hải quân.
Bộ binh là nòng cốt của quân đội Ottoman. Trong chiến đấu, bộ binh cùng gươm và cung tên tác chiến cùng với kỵ binh, hoặc tập hợp thành các đội pháo binh để công phá thành lũy. Kỵ binh rất được Mehmed quan tâm, vì thời bấy giờ tác chiến chủ yếu dựa vào kỵ binh. Số kỵ binh do các lãnh chúa phong kiến cung cấp cho quân đội. Ngoài ra, Mehmed cũng tổ chức một đội kỵ binh thường trực, tuyển mộ từ Cấm vệ quân hoặc những người hầu.
Hải quân Ottoman mãi tới thời sultan Mehmed II mới được xem là một lực lượng chính quy, và nó bắt đầu phát triển mạnh mẽ cũng vào thời của ông. Mehmed đã bắt đầu cho xây dựng một số xưởng đóng thuyền chiến trên các cảnh ven bờ biển để gia tăng số lượng hải thuyền của đế quốc. Nguyên nhân của việc này là nhằm hoàn thành việc vây hãm, cô lập Constantinopolis và khống chế hải lộ trên biển Đen và biển Aegean. Kết quả, trong một thời gian ngắn Ottoman đã có một lực lượng hải quân to lớn gồm ba bốn trăm chiếc thuyền, đủ sức đương đầu với các hạm đội Tây Ban Nha, Pháp và cộng hòa Venezia đương thời. Trong trận Constantinopolis, hải quân Ottoman đã đóng một vai trò rất quan trọng.
Mehmed II đã ban bố bộ luật đầu tiên của đế quốc Ottoman. Bộ luật này đã xác định nghĩa vụ của người nông dân đối với lãnh chúa phong kiến, đồng thời xác định chế độ phân phối ruộng đất phong kiến của đế quốc.
Thân phận người nông dân: theo bộ luật, người nông dân phải đóng đủ thứ tô thuế nặng nề cho lãnh chúa, đồng thời còn phải đi phu tải lương cho chúa phong kiến và làm việc bảy ngày không công trên đất của chúa phong kiến hàng năm. Nếu người nông dân để ruộng đất bỏ hoang trong một năm thì chúa phong kiến có quyền tịch thu nhà cửa ruộng đất của họ, đồng thời đánh thuế nặng trên phần đất này để bù vào tổn thất của mình. Tất cả những điều này có mục đích là buộc chặt người nông dân với ruộng đất.
Phân chia ruộng đất: ruộng đất được chia làm 3 loại: của Giáo hội, của quốc gia và của tư nhân. Trong đó ruộng đất của quốc gia là lớn nhất. Ruộng của quốc gia lại được chia làm 3 loại nhỏ. Loại thứ nhất là ruộng của hoàng gia và các đại thần, mỗi năm thu nhập vào khoảng 10 vạn akche (đơn vị tiền tệ Ottoman, thời đó 1 akche mua được 7 kg bột mì). Số ruộng hai loại kia được cấp phát cho các địa chủ bậc trung (thu nhập hằng năm từ 2 vạn – 10 vạn akche) và bậc nhỏ (thu nhập hằng năm 2000 – 1 vạn akche), tính tổng cộng có chừng 1 vạn địa chủ loại này. Các lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải nộp thuế và cống phẩm cho vua, trưng tập kỵ binh (trong thời chiến) và phải vâng theo mệnh lệnh của vua. Số lãnh chúa này tạo nên nền tảng thống trị của đế quốc.
Có một điều đáng chú ý là thái độ của Mehmed II đối với tôn giáo rất là khoan dung và rộng rãi so với nhiều bậc đế vương cùng thời. Ông đã chấp nhận Chính thống giáo Đông phương, cho phép cho các giáo trưởng Thiên Chúa giáo truyền đạo ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông đối xử rất khoan hồng với giáo dân và giáo hội Thiên Chúa giáo tại Constantinopolis và trên toàn đế quốc. Mehmed II cho phép cộng đồng Thiên Chúa giáo được tự trị ở Constantinopolis, và ông bổ nhiệm một cựu giáo trưởng Constantinopolis có quan điểm bất đồng với hoàng đế Constantinus XI làm tổng giám mục của thành phố. Sau khi quân Ottoman chiếm Constantinopolis, tất nhiên là nhiều thánh đường Thiên Chúa giáo bị phá bỏ hoặc đổi thành thánh đường Hồi giáo (ví dụ đại thánh đường St. Sophia nổi tiếng ở Constantinopolis đã bị đổi thành thánh đường Hồi giáo Hagia Sophia), nhưng phần lớn những thánh đường Thiên Chúa giáo khác vẫn tồn tại. Dưới sự lãnh đạo của tổng giám mục, họ có quyền tự trị về mặt tôn giáo, văn hóa và có một hệ thống pháp luật riêng (tất nhiên là họ vẫn phải tuân theo một số luật chung của đế quốc Ottoman). Thậm chí họ còn khỏi phải đi binh dịch và được phép mở trường học riêng để dạy bằng ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên ông chỉ cho phép các tín đồ Chính thống giáo Đông phương được sống ở Constantinopolis, trục xuất di dân đến từ Genova và Venezia cũng như các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo ra khỏi thành phố này.
Về sau, Mehmed cũng cho phép giáo hội Thiên Chúa giáo của người Armenia, giáo hội Do Thái giáo của người Do Thái và giáo hội Hy Lạp cũng được hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật của đế quốc Ottoman. Tất cả các giáo hội này được gọi là millet, (tạm dịch là tập đoàn hoặc dân tộc có tín ngưỡng đặc thù trong đế quốc Ottoman) mỗi millet do một lãnh tụ đứng đầu, có trách nhiệm trưng thu thuế cho hoàng đế Ottoman và đảm bảo các giáo dân biết giữ pháp luật và trung thành với triều đình Osman. Các millet ngoài việc chịu chung nghĩa vụ binh dịch, thuế má, tất cả phần còn lại đều được Mehmed cho phép tự trị. Những giáo dân trong millet khi phạm tội cũng chỉ bị xét xử trong các tòa án riêng của millet và chỉ chịu phạt theo luật riêng của millet, trừ những tội có dính đến trị an và hình sự thì phải bị trừng trị theo luật chung của đế quốc. Chính miệng ông đã nói với lãnh thụ người Serbia rằng:
“Bên cạnh một nhà thờ Hồi giáo, đều phải xây dựng một nhà thờ Thiên Chúa giáo, dân chúng của ông có thể cầu nguyện trong nhà thờ.” —Mehmed II
Mehmed cũng đã tuyển mộ đội tân binh đến từ Devshirme. Trong đội quân này có nhiều giáo dân Thiên Chúa giáo trẻ tuổi. Đội quân này được chia làm 2 nhóm: các lính tráng có đủ tư cách nhất sẽ được phục vụ nhà vua trong cung điện; những người kém tài hơn nhưng có thể lực tốt thì sẽ được gia nhập toán Cấm vệ quân janissary của vua.
Ngay từ thời niên thiếu, Mehmed II đã bộc lộ một sự yêu thích đặc biệt về văn học và nghệ thuật. Sau này khi lên làm vua, ông mời nhiều danh họa Ý, người theo chủ nghĩa nhân văn và nhà triết học Hy Lạp đến cung điện, nói đúng hơn là chung quanh Mehmed thường tụ tập rất nhiều văn nhân học giả, cùng nhau bàn chuyện quốc sự hay làm thơ, vẽ tranh. Mehmed II cũng đã sáng tác một tập thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết và miêu tả những khung cảnh hoành tráng trên chiến trường. Đặc biệt, Mehmed đã phá vỡ thông lệ “không sùng bái hình nộm” của đạo Hồi, mà mời nhiều danh họa nổi tiếng ở Ý về vẽ chân dung cho ông. Một trong số họ chính là họa sĩ Gentile Bellini người Venezia, đã vẽ một bức chân dung nổi tiếng của Mehmet II. ông đã ra lệnh sưu tập nhiều bức danh họa nổi tiếng của đế quốc Đông La Mã cũng như những bức họa nổi tiếng khác trên thế giới. Đáng chú ý, trong số những bức họa được triều đình Ottoman cất giữ từ thời Mehmet II trở đi, có nhiều bức họa đời nhà Minh của Trung Quốc đương thờ.
Giáo dục cũng là một mặt được Mehmed II quan tâm. Ông đã đầu tư xây dựng nhiều thư viện, trường học… tại kinh đô mới Constantinopolis. Chỉ riêng tại thánh đường Hồi giáo The Conqueror, Mehmed đã cho dựng lên bốn trường cao đẳng kinh văn xung quanh. Đồng thời ông cũng cho xây một trường học nội cung mới tại địa điểm của cung vua cũ ở Constantinopolis, nhằm đào tạo những quan viên được huấn luyện bài bản về mặt hành chính, bù đắp vào nhu cầu ngày càng tăng về các quan chức hành chính do cương thổ đế quốc càng lúc càng mở rộng. Học sinh chủ yếu là các tù binh 10-15 tuổi hoặc các thanh thiếu niên ở các giáo khu Thiên Chúa giáo. Chương trình học kéo dài 10-12 năm, bao gồm các môn như ngữ văn, văn học, nhạc, pháp luật, thần học, quân sự, toán, triết học, quản lý học và quản lý hành chính, thuế vụ, tài chính… Những học sinh nào không qua được các kỳ kiểm tra sẽ bị đuổi học ngay. Bản thân Mehmed cũng thường đến thăm hỏi tiến độ học tập của các học sinh trong trường.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, Mehmed II không ngại tốn kém, cho vời nhiều học giả nổi tiếng trong giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu thời đó về giảng dạy tại các ngôi trường của Ottoman. Có dạo, khi ông vời được một nhà thiên văn nổi tiếng người Trung Á về thủ đô Constantinopolis, ngay lập tức tại ngoại ô Constantinopolis liền tiến hành xây dựng một ngôi trường lớn về toán học và một đài thiên văn bên cạnh.
Qua đời
Giống như nhiều vị đế vương khác, trong thời kỳ cai trị của mình Mehmed II luôn luôn phải đối phó với những cuộc đấu tranh quyền lực trong triều đình. Đặc biệt nghiêm trọng, năm 1472 các đại thần phản loạn từng tổ chức âm mưu phế bỏ Mehmed để lập Cem, một đứa con nhỏ của ông lên ngôi, nhưng may mắn thay âm mưu bị phát hiện và những người dính líu đều bị trừng phạt. Vì vậy, từ một vị vua cởi mở, ưa kết giao, Mehmed II về cuối đời trở nên hết sức đa nghi. Ông đã sắp xếp rất nhiều biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của bản thân. Ví dụ ông không cho bất kỳ ai mang vũ khí khi vào cung, kể cả những cận vệ của ông cũng phải vào tay không. Khi ăn ông không bao giờ ngồi chung bàn với người khác, và món ăn nào ông cũng bắt thuộc hạ nếm thử, khi biết không có độc ông mới ăn. Ông cũng xây dựng rất nhiều cụm bố phòng quanh cung điện. Để đề phòng bị giết hại khi tắm, ông đã đặt nhiều thiết bị phòng vệ chung quanh nhà tắm, và các cửa vào nhà tắm chỉ có thể từ trong mở ra, người ngoài không vào được. Cánh cửa cuối cùng còn lắp đặt máy bắn tên tự động.
Theo “Thập đại tùng thư”, đề phòng kỹ như vậy Mehmed vẫn chết do bị ám sát. Cụ thể, Mehmed II bị sát hại tại Hunkârçayiri gần Gebze, Constantinopolis ngày 3 tháng 5 năm 1481 lúc mới 52 tuổi, được tin là do bị các thái y gốc Do Thái đầu độc, còn kẻ chủ mưu là thái tử Bayezid, do Bayezid quá nông nóng kế thừa vương vị. Tình cảnh chết của ông rất thê thảm, cả mũi và miệng đều trào máu. Tương truyền trong thời gian này ông đang điều động binh mã đến miền Bắc Tiểu Á để chuẩn bị một cuộc viễn chinh, nhưng cái chết bất ngờ của ông đã khiến nó cùng với Mehmed vĩnh viễn nằm sâu dưới ba tấc đất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét