Năng lượng mặt trời sẽ nổi trên sông Mê Kông?
Tác giả: David Brown
Dịch giả: Song Phan
5-12-2019
Trong khoảng hơn hai thập kỷ, nhiều đợt báo động đã nổi lên ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nó đang chịu tác động dồn dập bởi biến đổi khí hậu, bởi sự phát triển ồ ạt của các đập thượng nguồn, bởi các tập quán canh tác không bền vững và không phù hợp, bởi lòng tham và quyết tâm chính trị. Sự trừng phạt mà đồng bằng này đang gánh chịu đã được báo cáo rõ ràng, đầu tiên là trong các bài nghiên cứu học thuật, kế đó là trong các ấn phẩm chuyên ngành và lời kêu gọi của các tổ chức phi chính phủ.
Bây giờ có một sự đồng thuận: Một thảm họa môi trường đang diễn ra một cách khó dừng được trên 75.000 km² vùng đất thấp màu mỡ có tiếng ở Việt Nam và Campuchia, nơi sinh sống của khoảng 35 triệu nông dân và ngư dân. Các phương tiện truyền thông lớn đang đưa ra các cáo phó bi thương cho sông Mê Kông.
Tuy nhiên, vào mùa thu của một năm mà lũ sông Mê Kông đến muộn hơn bao giờ hết, có lý do để tin rằng một công nghệ đột phá và lực lượng thị trường sẽ tạo điều kiện cho hệ thống thủy văn và hệ sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long tránh khỏi bị xáo trộn không đảo ngược được. Quy lại như thế này: Công nghệ sản xuất điện mặt trời chi phí thấp, dễ nhân rộng đã loại trừ ưu thế kinh tế để xây thêm các dự án thủy điện nữa.
Một hệ thống phát điện mặt trời nổi, hệ thống đầu tiên ở Đông Nam Á, đã được triển khai trong năm nay trên một hồ chứa ở phía nam miền trung Việt Nam. Dự án Đa Mi 47,5 megawatt được một khoản vay của Ngân hàng Phát triển châu Á cấp vốn và được một công ty con của công ty điện lực EVN xây dựng.
Đa Mi không phải là một dự án trình diễn nhờ dựa vào nhiều trợ cấp, mà là một phản ứng rất thích ứng vì áp lực thực tế của thị trường. Để kích thích việc chuyển sang sản xuất điện mặt trời, chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo EVN, công ty điện lực quốc gia, trả 9,35 US cent mỗi kilowatt giờ trong 20 năm cho bất kỳ dự án nào được đưa vào hoạt động trước ngày 30 tháng 6 năm 2019. Đối với các nhà điều hành Nhà máy thủy điện Đa Mi, tính kinh tế của việc tích hợp hệ thống năng lượng mặt trời với đập thủy điện hiện có rất hấp dẫn. Giàn pin mặt trời rộng 50 ha (124 mẫu Anh), mỗi tấm pin nghiêng theo một góc được tính toán chính xác để tối đa hóa mức thu năng lượng mặt trời, bắt đầu cung cấp điện cho lưới điện quốc gia Việt Nam vào tháng 5.
Do giá của các tấm pin quang điện mặt trời đã giảm rất mạnh trong thập kỷ qua và do việc lắp đặt với ‘quy mô tiện ích công’ (utility-scale ≥ 10 megawatts) có thể được hoàn tất trong vài tháng, các dự án này hiện đang cạnh tranh với các dự án than, khí đốt, thủy điện hoặc hạt nhân. Việc chế tạo các tấm pin mặt trời và chi phí trữ điện bằng ắc-quy, dự kiến sẽ giảm nhiều hơn nữa. Các giàn năng lượng mặt trời nổi được dựng trên các hồ chứa của các đập thủy điện, hiện có hiệu quả đặc biệt về mặt chi phí; không phải mua mặt bằng, đơn giản trong việc nhân rộng khi nhu cầu tăng, cơ sở hạ tầng truyền tải có sẵn và việc phát điện có thể được tối ưu hóa bằng cách chủ yếu dựa vào năng lượng quang điện khi có ánh sáng ban ngày và thủy điện vào ban đêm.
Các hệ thống năng lượng mặt trời nổi đang được ghi vào kế hoạch tổng thể về năng lượng của Singapore, Thái Lan, Indonesia và Philippines cũng như Việt Nam, và vào các tính toán của các ngân hàng đầu tư.
Năng lượng mặt trời nổi với quy mô lớn hơn, công suất đỉnh 400 MW, cũng được xem là giải pháp thay thế cho dự án thủy điện khổng lồ trên sông Mê Kông ở phía đông Campuchia. Vào năm 2014, nỗi lo ngại ngày càng tăng đối với tác động sinh thái của dự án đập Sambor đã thuyết phục chính phủ Campuchia thực hiện một nghiên cứu về các thiết kế thay thế nó. Nghiên cứu này được Viện Di sản Thiên nhiên (Natural Heritage Institute, hay NHI) có trụ sở tại California hoàn tất ba năm sau đó, đã khẳng định dự án đập Sambor này là một thảm họa sinh thái không có giải pháp môi trường nào có thể đối phó được. Đáng chú ý, NHI đã tìm thấy một phương án thay thế hoàn toàn khác, giàn quang điện mặt trời nổi trên hồ chứa Se San 2 gần đó, có thể cung cấp điện cho lưới điện Campuchia với chi phí vòng đời thấp hơn bất kỳ kịch bản nào của kế hoạch Sambor, và không có tác động môi trường đáng kể.
Chỉ trên cơ sở kinh tế và tài chính, kế hoạch thủy điện Sambor sẽ phải chết. Tuy nhiên, Campuchia là một đất nước ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa; nhu cầu năng lượng của nước này tăng 15-20% mỗi năm. Nước này là một đồng minh trên thực tế của Trung Quốc, nhờ vậy Trung Quốc ngăn chặn Việt Nam hoặc Thái Lan lèo lái Campuchia theo hướng khác. Tham nhũng trong chính quyền đầy rẫy. Khiếu kiện của công dân dường như không gây ấn tượng với chính quyền Phnom Penh. Nếu các ngân hàng nhà nước Trung Quốc vẫn sẵn sàng cho các công ty Trung Quốc vay khoản tiền mặt cần thiết để xây đập Sambor và Stung Treng, một đập gây tranh cãi khác ở thượng nguồn, liệu Phnom Penh có khả năng từ chối không?
Lào vẫn mơ ước làm giàu từ xuất khẩu điện. Mặc dù nước này cũng đang xem xét đề xuất năng lượng mặt trời nổi của NHI, dù kinh tế của thủy điện u ám hơn bao giờ hết và các khoản nợ chồng chất với Sinohydro và các nhà thầu Trung Quốc khác đã không làm giảm bớt sự nhiệt tình của Viêng Chăn trong việc làm chủ khoảng 200 đập sản xuất điện. Các nước láng giềng cũng chưa rút lại lời hứa sẽ nhập khẩu một lượng lớn điện của Lào. Được biết Thái Lan đã cam kết tăng mức nhập khẩu điện của Lào, từ mức khoảng 4000 MW hiện tại lên 9000 MW vào năm 2025; trong khi đó, Việt Nam có kế hoạch lấy 5000 MW vào năm 2030; và Campuchia vừa hứa sẽ lấy 2400 MW bắt đầu vào năm 2024 từ các nhà máy điện than hiện đang được xây dựng tại Lào.
Ở Việt Nam, nơi mà hầu như không có một con sông nào bên trong biên giới mà không có đập, ý kiến chuyên gia giờ đã chuyển mạnh sang chống lại các dự án thủy điện trên sông Mê Kông và các nhánh của nó. Như thường được đưa tin trên báo chí địa phương Việt Nam, các đập ở Trung Quốc, trên các nhánh của sông Mê Kông ở các vùng cao của Việt Nam, và trên hết sông này đến sông khác ở Lào, đã làm nghẽn đi dòng phù sa màu mỡ đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hàng năm và làm cạn kiệt nguồn cá ở đó.
Trớ trêu là một công ty kỹ thuật và xây dựng có quan hệ chặt chẽ với chính phủ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đã thông báo rằng họ sẽ bắt đầu xây một nhà máy điện và đập trị giá 2 tỷ đô la, 1400 MWP trên sông Mê Kông ngay trên Luang Prabang năm 2020; công ty Chart Karnchang của Thái Lan dự kiến sẽ là một nhà thầu phụ lớn.
Campuchia và Lào, nước láng giềng phía thượng nguồn, sẵn sàng nhận viện trợ nước ngoài nhằm phủ xanh lưới điện của họ, nhưng cả hai nước này không cảm thấy có nhiều nghĩa vụ phải hạn chế dấu vết carbon. Nói tóm lại, mặc dù việc tạo ra điện từ than hoặc đập trên sông, đang ngày càng không mang lại lợi ích kinh tế, nhưng hai cách cũ này vẫn còn sức lôi kéo lớn.
Việc đưa vào lưới các dạng điện này, không chút chắc chắn công nghệ tốt sẽ đẩy lùi được công nghệ xấu, đặc biệt ở quy mô đáp ứng nhu cầu năng lượng đang phát triển nhanh chóng của khu vực lục địa Đông Nam Á.
Tuy nhiên, các nhà môi trường vẫn có thể mơ mộng. Một trong số đó là kỹ sư Mỹ gốc Việt, Phạm Long. Từ năm 1995, Quỹ Sinh thái Việt (Viet Ecology Foundation) của ông Long đã tích cực đối thoại giữa các chuyên gia trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài và các đối tác tại Việt Nam. Bây giờ ông đang thúc giục các nhà hoạch định chính sách ở Campuchia xem xét điều mơ ước của ông về một nhà máy năng lượng mặt trời nổi 28,5 GWP trên hồ lớn nhất Đông Nam Á, Tonle Sap (Biển Hồ).
Dự án “Mặt trời trên hồ” của ông Long táo bạo về quy mô: Ông đề xuất một dự án mặt trời nổi với quy mô được nâng lên hàng năm theo nhu cầu năng lượng đang tăng của Campuchia cho đến khi nó lớn gấp 590 lần nhà máy sản xuất năng lượng mặt trời Đa Mi ở Việt Nam đã đề cập ở trên, lớn gấp 70 lần nhà máy năng lượng mặt trời do NHI đề xuất trên hồ chứa hạ lưu Se San 2 của Campuchia, như là một phương cách thay thế cho dự án thủy điện Sambor, và tương đương với 47 nhà máy phát điện chạy bằng than cỡ trung bình.
Tonle Sap là một địa điểm lý tưởng cho một giàn năng lượng mặt trời nổi: Đó là một trong những nơi nắng nhất ở Đông Nam Á. Các tấm pin nghiêng về phía nam một góc 14 độ sẽ nhận được 2034 kilowatt giờ chiếu xạ trên một mét vuông mỗi năm.
Ông Long dự kiến rằng một hệ thống năng lượng mặt trời nổi trên hồ Tonle Sap có thể được xây với mức gia tăng diện tích 34 km² mỗi năm để theo kịp cơn khát điện của Campuchia. Ông Long giả định rằng, giá của các tấm pin mặt trời, hiện khoảng $800 / kilowatt giờ, sẽ giảm 2% mỗi năm và giá ắc quy trữ điện cũng sẽ giảm. Ngoài ra, cộng thêm chi phí vận hành và bảo trì, cùng chi phí kết nối với lưới điện quốc gia của Campuchia, ông Long tính toán rằng, giàn năng lượng mặt trời nổi có thể đáp ứng tất cả nhu cầu năng lượng của Campuchia từ năm 2020 đến năm 2045, và có thể xa hơn, với chi phí sản xuất diện qui dẫn là 7,73 US cent mỗi kilowatt giờ. Chi phí đó tương đương với chi phí xây nhiều đập mới trên dòng chính sông Mê Kông, và chưa bằng một nửa số tiền mà người tiêu dùng Campuchia hiện phải trả tiền điện.
Khi các tổn thất tránh được – bảo tồn thủy sản nội địa và đất nông nghiệp, và tạo việc làm cho dân số ven sông của Campuchia – được xét tới, giá điện năng được cân bằng từ dự án Mặt trời trên Hồ, theo tính toán của ông Long, giảm xuống chỉ còn 4,93 cent mỗi kilowatt giờ.
Ông Long không gợi ý ai sẽ cung cấp 31 tỷ đô la Mỹ mà ông ước tính sẽ cần để xây dựng dự án hồ Tonle Sap 330 km², 28,5 GWp. Các ngân hàng Trung Quốc sẽ sẵn sàng tài trợ cho một giàn năng lượng mặt trời nổi khổng lồ như họ đã từng cho vay để thực hiện các dự án thủy điện không? Điều đó hoàn toàn có thể nghiệm ra được; các nhà máy của Trung Quốc sản xuất hơn 60% nguồn cung cấp tấm pin mặt trời toàn cầu và kỹ sư của họ có nhiều kinh nghiệm xây dựng các cánh đồng năng lượng mặt trời. “Đó sẽ là một cơ hội lớn cho người Trung Quốc, chứng tỏ cho láng giềng của họ thấy rằng họ là những người anh em tốt”, ông Long nói.
Nếu không phải Trung Quốc, có thể các ngân hàng và nhà thầu phát triển phương Tây có thể bị thuyết phục để đẩy mạnh cơ hội có một không hai này giúp tránh thảm họa sinh thái và thu lợi từ việc này. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, có nhiều khả năng là họ sẽ tập trung vào ý tưởng năng lượng mặt trời nổi do NHI đề xuất, vốn muốn thúc đẩy các nhà máy thủy điện hiện có và các hồ chứa của chúng – 5 ở Campuchia và 9 ở Lào – để sản xuất thêm 5 gigawatt điện.
Greg Thomas, Giám đốc điều hành của NHI, giải thích rằng, việc đặt các giàn năng lượng mặt trời nổi ở cùng một chỗ với các nhà máy thủy điện hiện có, làm sản lượng điện tăng gần gấp đôi và giảm sự biến đổi của nó. Điều này là do hai chế độ phát điện bổ sung nhau. Ban ngày, các tuabin thủy điện có thể được hạ xuống, trừ khi cần thiết để cân bằng sự sụt giảm sản lượng điện mặt trời do các đám mây bay ngang qua gây ra. Ban đêm, tận dụng nguồn nước được thêm vào các hồ chứa lúc ban ngày, các tuabin có thể được chạy ở tốc độ cao hơn.
Thomas nói thêm rằng, việc thêm năng lượng mặt trời cho các đập hiện có, sẽ cho phép Lào đáp ứng được các mục tiêu xuất khẩu năng lượng đầy tham vọng của họ qua việc xây ít đập hơn, mang lại nguồn điện bổ sung lên dây dẫn nhanh hơn rất nhiều và với chi phí thấp hơn đáng kể.
Liệu những người ra quyết định ở Vientiane và Phnom Penh sẽ từ bỏ các dự án thủy điện mà họ đã chuẩn thuận từ nhiều năm trước, trước khi các tác động môi trường được hiểu một cách thoả đáng và khi các giải pháp năng lượng mặt trời và gió thay thế còn khó có thể tưởng tượng ra?
Ở Campuchia, Thủ tướng Hun Sen và một vài trợ lý được tin cậy, độc quyền ra quyết định. Kế hoạch phát triển năng lượng quốc gia sắp được cập nhật, một lần nữa rất có thể sẽ là một mớ hổ lốn các khả năng. Tình trạng thiếu điện kinh niên là một sự kìm hãm đối với sự tăng trưởng kinh tế của Campuchia, và hiểu biết thông thường cho rằng, cái được xây sẽ là bất cứ thứ gì mà ai đó sẵn sàng tài trợ với giá điện do EDC, công ty điện lực quốc gia, định ra. Tính cấp thiết của việc có thêm năng lượng đưa lên lưới sẽ làm năng lượng mặt trời được ưa chuộng hơn, đặc biệt là năng lượng mặt trời nổi, nhưng để điều đó trở thành một phần lớn của giải pháp, EDC sẽ phải cải thiện khả năng ổn định lưới điện.
Khi việc phát điện ở ‘quy mô tiện ích công’ từ gió và nắng (nổi hay không) được đẩy mạnh ở Thái Lan và Việt Nam, chính phủ Lào sẽ phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn. Họ phải đối mặt với khả năng rất thực tế là chi phí sản xuất điện giảm nhanh bên trong biên giới của chính họ, sẽ khiến cả Thái Lan lẫn Việt Nam bỏ ngang các cam kết mua điện từ Campuchia, nơi đã từng mang hy vọng sẽ là “Bình điện của Đông Nam Á”. Trong trường hợp đó, phát triển thủy điện thêm trên sông Mê Kông và các nhánh của nó, sẽ không còn có khả năng được cấp vốn.
Tác giả David Brown từng là nhà ngoại giao Hoa Kỳ, hiện viết các bài bình luận về vấn đềViệt Nam và các khu vực lân cận.
Từ Mongabay và Asia Sentinel
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét