Ngô Đình Diệm, ông là ai?(Phần 2)
Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Thục khai với Pháp rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.( 41) Ngày 28/12/1945, Tổng Giám mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.( 42)
Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946, khi Diệm đến ở nhà Linh mục Ðộầ, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã “khéo léo” mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cho gọi Nhu tới lĩnh về.( 43)
Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt Minh bắt có nhiều nghi vấn:
1. Xét về ngày tháng Diệm bị bắt, có phần không ổn.
a. Tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ và Karnow dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào tháng 9/1945, và trả tự do vào khoảng tháng 3/1946.
b. Ngày tháng mà Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ can thiệp).
c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị “cô lập” tại một làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.
2. Không ai rõ Diệm được tha ngày nào, và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành.
3. Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Thục nói Cộng Sản từng sai sát thủ người Hoa ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm? Người ta chưa quên số phận những Tạ Thu Thâu, Vũ Ðình Dy, v.. v… ở Quảng Ngãi; và nhiều cảnh “mò tôm” khác khắp ba miền.
4. Anh em Diệm rất thành thạo thủ thuật tự đánh bóng (kiểu Diệm “làm Tể tướng cho Bảo Ðại,” Khả làm “thượng thư đầu triều Thành Thái,” hay “đầy vua không Khả”). Thành tích “bị giam lỏng” tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng thêm vốn cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị “cô lập” này trong văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.
Cho tới khi có tài liệu rõ ràng, có thểờ tin Diệm đã trốn trong nhà tu [Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế như tài liệu văn khố Pháp ghi nhận.
V. DIỆM & BẢO ÐẠI: “THÀNH PHẦN THỨ BA”
Ðầu năm 1947, Diệm xuất hiện ở Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Ðược Pháp yêu cầu lập chính phủ chống Cộng, Diệm đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được, tức thống nhất ba miền, có quân đội riêng và nhiều quyền tự trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế ở Thái Hà ấợp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở ra Hà Nội.
A. “THÍ NGHIỆM” BẢO ÐẠI:
Thời gian này, “thí nghiệm” Bảo Ðại bắt đầu thành hình. Thí nghiệm này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng Việt Nam mà chính phủ Charles de Gaulle đã phát động từ năm 1944-1945.(44)
Từ mùa Hè 1945, sau khi Nhật lật đổ chính phủ thân Vichy của Decoux, Tướng de Gaulle đã nỗ lực tìm một “chí sĩ quốc gia Việt Nam chân chính” để cầm cờ dẫn Pháp trở lại Ðông Dương. Ứng cử viên được nhiều người biết nhất là Hoàng tử Vĩnh San (1900-1945), tức cựu hoàng Duy Tân (1907-1916), đã bị truất phế và đầy qua Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ ngày 26/12/1945 khiến “lá bài bí mật” của phe de Gaulle “tan biến như một giấc mơ đẹp.” Hai ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Drapier, Khâm sứ Vatican, trình lên Cao ủy/Linh mục Georges Thierry d’Argenlieu (1945-1947) kế hoạch cho Bảo Ðại lên ngôi như trước ngày 9/3/1945; rồi lập Hoàng tử Bảo Long làm vua, Hoàng hậu Nam Phương nhiếp chính, với Diệm làm Thủ tướng.( 45) Tuy nhiên, d’Argenlieu không đồng ý, và cũng không hài lòng việc Drapier xen lấn vào thế quyền.
Một số chính khách, lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc tiến thực hiện “giải pháp” Bảo Ðại từ cuối năm 1945, đầu năm 1946. Người đầu tiên đưa ra ý kiến này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ. Nhân dịp Bảo Ðại về Phát Diệm dự lễ tấn phong của Từ, Từ hỏi Bảo Ðại có mưu tính gì chăng; nhưng Bảo Ðại không có phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim và đảng viên trẻ Ðại Việt, kể cả Ðỗ Ðình Ðạo v.. v…, cũng tìm thấy ở Bảo Ðại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính thống [legality hay legitimacy] cần thiết, để chống Hồ.( 46) Việt Nam Quốc Dân Ðảng [VNQDÐ] và Trung Hoa Quốc Dân Ðảng [THQDÐ] cũng ít nhiều tiếp tay Bảo Ðại rời Hà Nội vào trung tuần tháng 3/1946.
Mãi tới sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh ngày 10/11/1946 và sự khủng hoảng của thí nghiệm “Cộng Hoà Nam Kỳ tự trị”–nhất là sau cuộc tấn công của Việt Minh tối 19/12/1946 trên khắp miền Bắc vĩ tuyến 16– vai trò Bảo Ðại mới sáng giá hơn. Nước Pháp lúc này đứng trước một ngã ba đường. Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải pháp chính trị. Nẻo đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ “ương ngạnh” [intransigence] của Hồ, đi tìm một “chí sĩ quốc gia” chấp nhận thoả hiệp với Pháp. Hầu hết các cấp lãnh đạo Pháp–từ Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet cho tới đặc sứ Philippe Leclerc de Hautecloque (1902-1947)–đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt với Hồ. Léon Pignon, Cố vấn Chính trị của d’Argenlieu, ủng hộ Bảo Ðại nồng nhiệt nhất.
Do Pignon tiến cử, ngày 14/1/1947, d’Argenlieu mật báo về kế hoạch tái sử dụng Bảo Ðại.( 47) Moutet không chấp thuận.( 48) Thủ tướng Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán thành, nhưng chuyển kế hoạch này cho người kế vị là Paul Ramadier (1947). Dẫu vậy, d’Argenlieu vẫn gửi Cousseau qua Hong Kong để liên lạc với Bảo Ðại vào đầu năm 1947.
Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày21/1/1947, và quyết định thay d’Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947 mang lại một không khí mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ Liên bang Việt Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung ương đó. Hồ Chí Minh và Bảo Ðại trở thành hai tâm điểm của các cuộc thảo luận.
Một số chính khách Pháp nghĩ rằng phải nối lại thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và các thuộc hạ thân tín là Cộng Sản, đa số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người yêu nước. Hơn nữa, Hồ và các thuộc hạ có khả năng nhất.( 49)
Một số khác chủ trương loại bỏ Hồ, thương thuyết với Bảo Ðại. Theo họ, Bảo Ðại có một số người theo ở Trung Kỳ; và được sự ủng hộ hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.( 50)
Ngày 1/4/1947 tân Cao Ủy Bollaert tới Sài Gòn với lệnh tái thiết lập những guồng máy cũ, nhưng đừng để lộ ra là Pháp muốn tái lập nền quân chủ.
Thời gian này, Bảo Ðại sống ẩn dật tại Hong Kong. Rời Hà Nội qua Nam Kinh ngày 16/3/1946trong phái đoàn thăm thân hữu Trung Hoa, nhưng đến ngày về, Bảo Ðại nhận được thư Hồ khuyên nên du lịch thêm một thời gian. Cựu hoàng bèn sang Hong Kong, sống tại đây với một vũ nữ, dưới một tên giả trong khách sạn Saint Francis Hotel. Mùa Thu 1946, Bảo Ðại tuyên bố với một ký giả Pháp, Jacques Sallebert, là với cựu hoàng, “chính trị đã chết.” Bảo Ðại cũng bày tỏ lòng kính phục Chủ tịch Hồ, và tiết lộ rằng sự thoái vị của mình là chiều theo ý dân.( 51)
Nhưng nhiều cá nhân và lãnh tụ các đảng phái chống Cộng vẫn tìm đến, lôi kéo Bảo Ðại khỏi cảnh huống “về hưu” non ở tuổi 33. Trong số này có Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành, Trần Trọng Kim v.. v… Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, số người ủng hộ Bảo Ðại được tăng cường thêm Hộ pháp của Cao Ðài. Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần 5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc chủ trương hợp tác với Pháp để chống Cộng. Chính Tắc và Trần Quang Vinh, Tư lệnh lực lượng võ trang Cao Ðài từ năm 1943, đã yểm trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên cầm đầu chính phủ Nam Kỳ tự trị sau cái chết của Y sĩ Thinh ngày 10/11/1946, hầu loại bỏ Trần Văn Tỷ. Cuộc tổng tấn công ngày 19/12/1946 của Hồ giúp Tắc mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947, nhân dịp Bộ trưởng Moutet đang tham quan Ðông Dương, Tắc yêu cầu Moutet đưa Bảo Ðại về nước; và hứa sẽ ủng hộ Bảo Ðại.( 52)
Nhưng các chính phủ tại Paris–với sự tham dự của Ðảng Cộng Sản Pháp–chưa muốn đoạn tuyệt với Hồ. Vì nhiều lý do, viên chức Pháp khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng đặt thêm một điều kiện căn bản–đó là thảo luận trên thế mạnh, không để bạo lực chi phối, và sau khi đã vãn hồi trật tự. Ngày 20/12/1946, khi ra trước Quốc Hội điều trần, và tuyên bố sẽ qua Ðông Dương tham quan, Moutet nhấn mạnh:
Nước Pháp muốn hoà bình, tôn trọng những nguyên tắc đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy được tôn trọng.( 53)
Dù chỉ là một bình phong cho việc tái chiếm miền Bắc bằng võ lực, hay phát xuất từ lòng chân thành, những điều kiện tiên quyết này mở ra một câu hỏi then chốt–đó là thương thuyết với ai? Thêm vào đó, là giới hạn của những nhượng bộ Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản tuyên cáo ngày 24/3/1945 qui định “năm xứ Ðông Dương” của chính phủ de Gaulle đã bị các biến cố ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh ở điểm Ðông Dương phải là một thành phần của Khối Liên Hiệp Pháp [L’Union FrancỄaise]; không thể thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức một phần lãnh thổ bất khả phân của Pháp như phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã qui định; và, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] của Hồ chỉ là một trong những phe phái mà người Pháp có thể thương thuyết.
Ngày 23/12/1946, Dân biểu André Mutter của hạt l’Aube–người từng yêu cầu bắt Hồ tại Paris sau khi hội nghị Fontainebleau đổ vỡ–tuyên bố không thể đàm phán với chính phủ Hồ được nữa vì đó là “bọn phản bội” [traitres]. Mutter nhấn mạnh:
Chúng ta không thể coi Hồ Chí Minh như đại diện của một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ sát nhân [assassin].( 54)
Sau khi tham quan Ðông Dương về, tảng lờ nhữờng lời kêu gọi tái thương thuyết của Hồ, ngày 18/3/1947, Moutet khẳng định không thể nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không những chỉ coi việc ký Hiệp ước như một phương tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.( 55)
Mặc dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt khoát–đề nghị đừng nên qui lỗi cho một phe nào–phe cực hữu ngày thêm mạnh. Ngày 13/4/1947, Paul Reynaud tuyên bố trước Quốc Hội Pháp:
Hồ Chí Minh là một tên tội phạm [un criminel] và không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển [manoeuvré] và tự chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của mình tuân lệnh, vậy thì, đó là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn nữa.( 56)
Hôm sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn, khẳng định: “Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là thực dân Liên Sô.”( 57)
Lời cáo buộc này khiến phe Cộng Sản Pháp, kể cả Marcel Cachin, cực lực phản đối. Ramadier phải công nhận cho tới thời điểm đó, Liên Sô hoàn toàn trung lập. Nhưng từ ngày này, dù công khai hay phía sau hậu trường, các viên chức Pháp, vì những lý do dễ hiểu, không ngừng tố cáo nguồn gốc Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] của Hồ.( 58)
Phe cổ võ cắt đứt thương thuyết với Hồ còn đưa ra thêm một lý do khác là từ ngày 19/12/1946, chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng này khiến không thể không hoài nghi rằng Hồ đã chết; và, những phần tử quá khích như Võ Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt Minh. Những văn thư ký tên Hồ gửi cho Pháp trong những tháng cuối năm 1946, đầu năm 1947–kể cả bản kiến nghị do Trần Ngọc Ranh trao cho Pháp tại Paris vào tháng 2/1947–bị coi là đã giả mạo chữ ký Hồ.( 59)
Song song với chiến dịch hạ uy tín Hồ là việc tách rời Hồ khỏi khối đại đa số người Việt yêu nước. Ramadier, khi ra thuyết trình trước Quốc Hội vào tháng 2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng này. Tiếp đó, Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 đã được ký kết với một chính phủ liên hiệp Việt Nam, mà không phải với cá nhân Hồ.
B. SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:
Ðể đánh dấu sự thay đổi chính sách của mình, Ramadier quyết định thay Linh mục/Cao ủy d’Argenlieu vì d’Argenlieu bị chỉ trích là còn nặng đầu óc thực dân; và vì d’Argenlieu có những khó khăn trong việc liên hệ với những người mà ông ta phải làm việc chung. D’Argenlieu không chịu từ chức, muốn níu giữ Ðông Dương chờ ngày de Gaulle–mới đột ngột từ chức ngày 24/1/1946–trở lại chính quyền. Ramadier chẳng còn cách nào khác hơn cách chức d’Argenlieu.
Bài diễn văn được coi như bản tuyên bố chiến tranh lạnh của Tổng thống Harry Truman (1945-1953) ngày 12/3/1947 và kế hoạch viện trợ tái thiết Tây Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng George C. Marshall–được biết như “Kế hoạch Marshall”– khiến chính phủ Ramadier nghiêng về phía loại bỏ Hồ, “một cán bộ QTCS.” Tuy nhiên, dự định của Paris nhằm biến hoá cuộc tái xâm lăng Việt Nam thành một điểm nổ của cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-Cộng Sản (1947-1991)–hầu xin được viện trợ Mỹ và thiết lập chính nghĩa mới –không đạt được tốc độ mong muốn. Oat-shinh-tân, dù không muốn thấy “một chế độ tay sai của Mat-scơ-va thống trị bán đảo Ðông Dương,” và cũng không muốn bị mang tiếng ủng hộ Pháp tái thiết lập chế độ thuộc địa kiểu tiền chiến tại thuộc địa này, chỉ khuyên Pháp nên tìm ra một “chí sĩ quốc gia chân chính” lên cầm đầu cuộc chiến chống Cộng. Bởi thế, suốt năm 1947, Bollaert gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm một giải pháp cho Việt Nam. Dẫu vậy, Bollaert đặt xuống những nền tảng cho việc thực thi thí nghiệm Bảo Ðại. Giai đoạn đầu là những bước ngoại giao để loại bỏ Hồ.
Nguyên từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ nhiều lần xin nối lại thương thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Ðại Hội Các Quốc Gia Á Châu tại New Dehli, Ðài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ gửi Ramadier và Moutet, kêu gọi thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một thư nghị hoà, nhưng viên chức Pháp ở Paris đều nói không nhận được. Mãi tới ngày 26/3, viên chức Ngoại giao Pháp mới nói với Ðại sứ Mỹ Caffery là nhận được thư này, nhưng không ai dám khẳng quyết Hồ còn sống.( 60)
Cũng ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám khẳng định muốn “độc lập trong Liên Hiệp Pháp.” Ngày 18/4/1947, Giám nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc Việt, một công hàm yêu cầu ngưng bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.( 61) Hôm sau, 19/4, Giám lại tuyên bố sẵn sàng điều đình, nhưng vì Pháp đòi Việt Minh phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh Pháp, VM không chịu, vì như thế là đầu hàng.
Việt Minh còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc Thạch tới Bangkok và các nước Ðông Nam Á để vận động. Thạch hai lần bí mật tiếp xúc Tùy viên Quân sự Toà Ðại sứ Mỹ ở Bangkok, Trung tá William Law, trao cho Mỹ một số văn kiện, nhưng không đạt kết quả nào.( 62)
Tháng 5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế, tìm cách liên lạc với Giám. Ngày 9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Ðuống, rồi được dẫn đi gặp Hồ ngay tại tỉnh lỵ Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng các điều kiện của Bollaert–tức Việt Minh phải buông súng đầu hàng–Hồ chẳng có lựa chọn nào khác hơn từ chối.( 63)
Bollaert cũng xúc tiến mạnh hơn việc thành lập các cơ cấu hành chính lâm thời tại vùng chiếm đóng. Khởi đi từ Ủy Ban Chấp Chánh Lâm Thời [Comité administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An Dân Bắc Việt [Comité provisoire de gestion administrative et d'action sociale] ở Hà Nội (19/5/1947), các ủy ban hay hội đồng hàng tỉnh, hàng quận tiếp tục được thiết lập.
Trong hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở chiến dịch kêu gọi thương thuyết. Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Một tháng sau, ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân vật “ôn hoà”–Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên Giáp–lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDÐ vẫn được “nắm” chức Cứu tế, Xã hội (dù trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn Tố, Ðặng Văn Hướng, Bồ Xuân Luật là ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Ðình Tụng, Bộ trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu Giáo dân Ki-tô. Tôn Ðức Thắng mất chức Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh Quân đội.( 64)
Giới ngoại giao ghi nhận việc cải tổ chính phủ này như một nỗ lực của Hồ để nối lại thương thuyết. Tuy nhiên, khi trở lại Paris ngày 29/7, Mus tuyên bố khó thể có hoà bình vì cả hai bên đều không tin nhau. Thực ra, Bollaert vốn có ý định cắt đứt liên hệ với Hồ; và bí mật thương thuyết với Bảo Ðại cùng các phe phái chống Cộng. Mus là một trong những đặc sứ, nhưng quan trọng nhất vẫn là Cousseau, nhân viên tình báo có nhiệm vụ kiểm soát và nuôi dưỡng Bảo Ðại trong cảnh lưu vong. Nhưng ông vua cuối nhà Nguyễn, người được Ðại diện Vatican ca ngợi như thân Pháp nhất tại Việt Nam, đã phần nào thay đổi.( 65)
Bảo Ðại, và nhất là những cộng sự viên buổi đầu như Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải qua một cơn sốt váng vất độc lập, thống nhất–và, phần nào vì mặc cảm–đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn những gì đã nhân nhượng với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong Kong vào tháng 1/1947, chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3 kỳ; 2/ tự trị; 3/ định rõ vị trí của VN trong Liên Hiệp Pháp; 4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp nên định một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN có đại biểu ngoại giao với các nước Á Ðông và buôn bán với các nước khác.( 66)
Tuy nhiên, người Pháp không chịu nhượng bộ ngay. Quá tự tin ở sức mạnh quân sự–ít nữa đủ sức đánh tan quân đội chính qui Việt Minh–ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình hình quân sự những tháng đầu năm 1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan. Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh rút khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày 11/3, Pháp làm chủ tình hình Nam Ðịnh. Tại miền Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3, Quảng Nam ngày 16/3; rồi đổ bộ Ðồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình, ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế. Bởi vậy, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến dịch mùa khô 1947–một chiến dịch mà Tướng lãnh Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương sống quân đội Việt Minh. Ðể chuẩn bị cho chiến dịch này, ngày 16/5 Bollaert cử Tướng Raoul Salan–một nhân vật quen thuộc với Ðông Dương, từng tham gia cuộc thương thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946–làm Tư lệnh miền Bắc. Viện binh Pháp cũng lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương [Légions étrangères] gốc Ðông Âu và lính da đen Phi Châu.
Bollaert cũng cho cải tổ những chính phủ “Tề” tại miền Bắc và miền Trung. Ngày 19/5/1947, Y sĩ Trương Ðình Tri–nguyên Bộ trưởng Y tế trong chính phủ Liên Hiệp 2/3/1946 của Hồ–được cử làm Chủ tịch Hội Ðồng An Dân Bắc Việt. Tại miền Trung, Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng Thẩm nghị [Tư vấn] Trung Kỳ. Tại miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch là gánh nặng của mình, Bollaert biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này. Ngày 19/5, Bollaert trả Dinh Thống Ðốc cho Hoạch. Ðồng thời, áp lực Hoạch cải tổ chính phủ và tách biệt dần khỏi khuynh hướng tự trị.
Trong năm 1947 cũng có nhiều nỗ lực kết hợp các đảng phái Việt Nam đang tập trung tại vùng “Tề.” Ngày 17/2, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc (Front d’Union Nationale du Viet-Nam, hay MTQGTNTQ)–hậu thân của Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Dân–chính thức thành lập, qui tụ các đảng viên Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng, Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn, Cao Ðài, Ðoàn Thể Dân chúng, và Liên Ðoàn Công Giáo.( 67) Ngày 29/3, MTQGTNTQ ra Tuyên Cáo tại Hong Kong. Theo tuyên cáo này, mục tiêu của Mặt trận là thống nhất tất cả các tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới. Về những biến cố ở Việt Nam, Mặt Trận khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình của một đảng phái chính trị nào, mà là của toàn dân Việt. Mặt Trận cũng khẳng định chính phủ Hồ không còn được nhân dân tin tưởng và đã mất vị thế trong thế giới trong công cuộc tranh đấu dành độc lập. Bởi vậy, Mặt Trận ủng hộ cựu hoàng Bảo Ðại Nguyễn Vĩnh Thụy để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự.( 68) Thế chống Cộng của các phe nhóm được tăng hơn nữa sau khi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh sát hại ngày 20/4/1947.
Tại miền Bắc, nhóm Ðặng Vũ Lạc (1902-1948), Lê Thăng (1901-1987?), Ðỗ Văn Năng (1915-1950) bắt đầu qui tụ các đảng viên Ðại Việt và VNQDÐ, thành lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng hay Tân Ðại Việt. Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân cùng Ngô Thúc Ðịch và một số người khác tái tổ chức VNQDÐ.
Tại miền Trung, VNQDÐ và Ðại Việt tái xây dựng tại vùng Tề. Tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn Khoa Toàn đề xướng, Trần Văn Lý và Trần Thanh Ðạt lập nên Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp làm cánh tay chính trị. Một nhân vật đang lên khác tại miền Trung là Phan Văn Giáo (1901-1963?). Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh Hoà từng nổi danh là cây vợt tennis tên tuổi, bị Việt Minh bắt giữ vào tháng 8/1945 vì liên hệ với VNQDÐ, và lên án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào tháng 2/1946. Thoát ra Hà Nội tháng 11/1946, Giáo qua Hong Kong với Bảo Ðại. Tháng 3/1947, được Bảo Ðại ủy về nước vận động thành lập chế độ quân chủ lập hiến.
Tại miền Nam, các phe nhóm tự trị thay đổi lập trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn mỗi xứ vẫn có tự trị về kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng khác tổ chức biểu tình khắp nơi. Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Ðại về nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi 14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn.
Các viên chức vùng Tề khắp ba miền cũng tới tấp đi lại giữa Việt Nam và Hong Kong để “van xin” Bảo Ðại đứng ra nhận trách nhiệm. Có những nỗ lực liên hiệp giữa Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ của Nguyễn Văn Sâm, sau khi Hộ Pháp Tắc tuyên bố ủng hộ tổ chức này ngày 16/8. Ðiều kiện của Sâm là ghế Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy Hoạch tiếp xúc Bảo Ðại để cầm đầu phong trào quốc gia và thống nhất đất nước. Ngày 5/9, Bảo Ðại tuyên bố muốn tiếp xúc với các lãnh tụ VN để bàn luận thời sự. Cùng ngày, dù không được mời, Sâm qua Hong Kong gặp Bảo Ðại.
Ngày 9/9, Bảo Ðại tiếp kiến 24 đại diện ba miền. Trong số những đại diện này có Nguyễn Văn Tâm, Bộ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Hoạch. Bảo Ðại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương lượng với Pháp.( 69)
Giới giáo dân Ki-tô cũng âm thầm yểm trợ thí nghiệm Bảo Ðại. Từ đầu năm 1947, Giám mục Từ đã cho một số các chính khách chống Cộng vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô Ðình Nhu và Trần Văn Chương cũng một thời tá túc tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi cư ngụ ở Ðà Lạt. Các chi nhánh Ðại Việt Duy Dân, VNQDÐ và Ðại Việt cũng bắt đầu được tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn những chuyến thăm viếng giáo dân với danh nghĩa vận động kháng chiến chống Pháp để tuyên truyền nhu cầu một cuộc thánh chiến chống Cộng. Tại giáo phận Vĩnh Long, Giám mục Thục cắt dần liên hệ với Việt Minh. Nhưng nhiệt tình chống Cộng hơn cả là các giáo mục tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho. Họ công khai yểm trợ các đơn vị lưu động bảo vệ giáo xứ [UMDC] của Trung úy Jean Léon Leroy, thủ diễn vai trò “chính trị viên” cho các binh sĩ thêu trước ngực hình thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới tái lập kiểm soát như Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng Trị, Kontum, v.. v… nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Ki-tô cũng được tổ chức để chống Cộng. Pháp còn sử dụng các giáo sĩ Ki-tô để móc nối với những cộng đồng giáo dân tại các giáo phận Việt Minh kiểm soát. Khâm sứ Drapier không những ban phép lành cho phong trào thánh chiến này mà còn đẩy mạnh hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm Bảo Ðại.( 70)
Mặc dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các tổ chức chính trị và giáo phái không đạt được sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo, địa phương chi phối nặng nề, khiến phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất là tệ nạn sứ quân.
Dĩ nhiên, phe Việt Minh không chịu bó tay. Ðài phát thanh Việt Minh không ngừng đả kích những tên “Việt Gian” đang âm mưu lập nên một “chính phủ bù nhìn tay sai” chống lại chính phủ hợp pháp VNDCCH. Tại miền Nam, Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) phát động chiến dịch khủng bố và ám sát. Ðã có lúc, Việt Minh nghĩ đến việc gửi Phạm Khắc Hoè sang Hong Kong thuyết phục Bảo Ðại. Và, khi công bố chính phủ đổi mới vào tháng 7/1947, Hồ vẫn liệt kê Bảo Ðại như cố vấn tối cao.
Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà Ðông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới là “Ðộc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance].” Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ “độc lập”–từ năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ “quốc cấm” này, và chỉ có cặp Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần “cấp tiến” của Paris.( 71)
Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao cho Hồ không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống Hồ cùng những cán bộ lãnh đạo.( 72)
Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Ðại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Ðại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Ðại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.( 73)
Ngày 18/9–tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Ðại về nước–Bảo Ðại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Ðông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Ðông Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Ðại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Ðại, chỉ mong Bảo Ðại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Ðại khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Ðại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.( 74)
Ngày 29/9/1947, Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10, Xuân–mới từ Pháp về ngày 15/9–được Hội Ðồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.( 75)
Ðây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh thổ cho Bảo Ðại.
C. CHIẾN DỊCH MÙA THU 1947 (LÉA-CEINTURE):
Ngày 7/10, Pháp mở chiến dịch “Léa” (10-11/1947) tấn công Việt Bắc. Léa là tên một ngọn đèo cao 1,362 mét trên đường số 3, giữa Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn. Lực lượng mũi nhọn là các toán biệt kích Dù được thả xuống ngay tỉnh lỵ Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não của chính phủ Hồ. Tuy nhiên, Hồ đã sớm di tản đến một khu vực khác. Trường Chính Ðặng Xuân Khu đang chủ tọa một buổi họp tại Bắc Kạn kịp thời trốn xuống hầm trú ẩn. Chỉ có Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng không bộ nào, bị bắt sống và tình nghi là chính Hồ. Ngoài ra, còn có phụ tá của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Tài chính, cùng một số nhân viên thứ hạng khác.
Ngày 7/10, Pháp cũng chiếm được Tong và Sơn La. Nhưng hai mũi chủ lực Pháp gồm một cánh thiết giáp có Bộ binh tùng thiết di chuyển từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trên đường số 4, dưới quyền Trung tá Beaufré; và một đoàn giang hạm, mang theo hai tiểu đoàn Bộ binh, do Communal chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, rồi sông Gầm. Hai cánh quân này sẽ như hai gọng kìm vây chặt an toàn khu Việt Minh, phá hủy đài phát thanh, các kho tàng, tiêu diệt chủ lực, và yểm trợ việc thiết lập các tiền đồn dài theo biên giới để cắt đứt đường tiếp vận của Trung Hoa. Ðiểm hẹn là Ðài Thị, đông bắc Chiêm Hoá 12 cây số.
Vì mực nước sông Hồng lên cao, hai ngày sau, cánh quân hỗn hợp thủy-bộ của Ðại tá Commumal mới từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, hướng về Tuyên Quang.
Trong khi đó Nhảy Dù tiếp tục truy kích hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh. Ngày 9/10, Tướng Salan thả thêm 300 quân Nhảy Dù ở phía Ðông Nam Cao Bằng, tăng cường cho lực lượng cơ giới của Beaufré. Một chiếc Junker 52 bị bắn hạ. Ðại tá Lambert, Tham Mưu Phó của Salan, cùng 10 sĩ quan tùy tùng bị tử nạn. Việt Minh tịch thu được toàn vẹn kế hoạch hành quân Lea, và 4 ngày sau chuyển về Bộ Tổng Tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.
Ngày 13/10, Nhảy Dù Pháp chiếm Bắc Kạn, Cao Bằng; 20/10, chiếm Yên Báy; 21/10, chiếm Chapa; và 30/10, chiếm Lào Kay.
Ngày 20/11/1947, Salan mở thêm chiến dịch Ceinture [Vòng Ðai hay Thắt Lưng]. Ðây là giai đoạn II của chiến dịch Việt Bắc. Chiến dịch này nhằm lùng bắt cho bằng được cơ quan đầu não của Việt Minh (tại khu vực núi đá Ðình Cả) và phá nát căn cứ địa trong khu vực tứ giác Tuyên Quang-Thái Nguyên-Việt Trì-Phủ Lạng Thương. 9 tiểu đoàn từ Hải Dương tiến lên tảo thanh phía Ðông, Ðông Bắc và chính Bắc Hà Nội. Ðồng thời lập thế cản để đón đường các đơn vị từ phía rút Bắc về.
Ngày 19/12/1947, Chiến dịch mùa Thu của Salan chấm dứt. Mặc dù có những thắng lợi đáng kể, Salan không đạt được mục tiêu chiến lược. 60,000 quân Pháp cùng giang hạm, không quân và thiết giáp chỉ có thể tịch thu và phá hủy một số kho tàng của Việt Minh cùng ba trạm phát tuyến. Mục tiêu chính, tức toàn bộ chính phủ Hồ, đều chạy thoát. Ðài phát thanh Việt Minh tiếp tục hoạt động. Trong khi đó, những đợt phản công của Việt Minh gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nhảy Dù Pháp.( 76)
Ðáng sợ hơn nữa, từ ngày 12/10, Hồ ra lệnh “tiêu thổ kháng chiến.” Làng mạc bị thiêu hủy. Ðường xá, cầu cống bị phá hoại. Nền kinh tế quốc gia ngày một phá sản. Qua đầu năm 1948, tuyến giao thông từ Lào Kay tới Cao Bằng của Việt Minh trở lại tình trạng tự do như cũ.( 77)
Tại miền Nam, việc điều quân Pháp ra Bắc tạo cơ hội cho Việt Minh tăng gia hoạt động. Mặc dù Việt Minh không tạo được chiến thắng lớn nào, những vụ phá hoại đồn bót, cầu cống, ám sát, thủ tiêu diễn ra khắp nơi. Hai vụ ám sát gây tiếng vang nhất là cái chết ngày 10/10/1947 của Nguyễn Văn Sâm (1898-1947) tại Sài Gòn và Trương Ðình Tri ở Hà Nội.( 78)
D. THỎA ƯỚC HẠ LONG 6-7/12/1947:
Như mũi tên đã rời khỏi giây cung, thí nghiệm Bảo Ðại tiếp tục chu trình tiến hoá. Báo chí Paris nhập cuộc. Ngày 18/11/1947, Le Monde đăng bài của André Blanchet, đề nghị trả độc lập cho một nước Việt Nam độc lập dưới quyền lãnh đạo của Bảo Ðại. Các đoàn thể, tổ chức chống Cộng người Việt chuẩn bị đón Bảo Ðại về nước. Quan trọng hơn, Bollaert quyết định gặp Bảo Ðại để thương thuyết. Ngày 6-7/12/1947, hai bên gặp nhau ở Hạ Long. Bollaert ký với Bảo Ðại một tạm ước [protocol], theo đó, Bảo Ðại sẽ trở lại Ðông Dương thành lập chính phủ thống nhất ba miền. Việt Nam sẽ được trao trả độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Về ngoại giao, Pháp sẽ chịu trách nhiệm, nhưng sẽ đưa viên chức Việt vào ngạch ngoại giao. Về quốc phòng, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân đội này phải hứa sẽ tham chiến trong khối LHP. Quan trọng nhất là mật ước Pháp sẽ ngưng thương thuyết với Hồ.( 79)
Ngày 12/12, Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày sau, 15/12, Paris tuyên bố sẽ cho Bollaert “toàn quyền hành động và thương thuyết cần thiết để tái lập hoà bình và tự do tại Việt Nam.” Bản tuyên cáo này nhấn mạnh rằng vì Hồ đã bác bỏ đề nghị của Bollaert trong diễn văn ngày 10/9 tại Hà Ðông, Pháp đã ngưng mọi nỗ lực thương thuyết với Việt Minh. Bốn ngày sau nữa, 19/12, Tướng Xuân qua Hong Kong yết kiến Bảo Ðại. Ngày 23/12, chính phủ Pháp lại ra tuyên cáo là thể theo lời yêu cầu của Paul Coste-Floret, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại, Bollaert được phép xúc tiến việc thương thuyết với tất cả các phe phái ở Việt Nam.
Trong khi đó, chính phủ Truman bắt đầu lo ngại về sự sụp đổ của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa lục địa. Tướng Marshall được gửi qua Trung Hoa, hy vọng tìm một giải pháp chính trị. Tuy nhiên, Mao Trạch Ðông và Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định ngả theo Nga, công kích mãnh liệt chính sách Mỹ. Bầu không khí chiến tranh lạnh khiến Mỹ chú tâm hơn đến Ðông Dương, trực tiếp ủng hộ cuộc tái xâm lăng Việt Nam của Pháp.
Ngày 29/12/1947, báo Life đăng bài “The Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất] của William C. Bullitt, cựu Ðại sứ Mỹ tại Pháp và Liên Sô, cổ võ việc trao trả độc lập cho Việt Nam theo kiểu Philippines; giao phó cho người Việt quốc gia chân chính [true nationalists] trách nhiệm lôi cuốn những phần tử quốc gia trong hàng ngũ Việt Minh và tập sự cai quản đất nước. Mặc dù không nhắc đến Bảo Ðại, và cũng chỉ đăng hình Bollaert cùng Hồ, “phần tử quốc gia” mà Bullit nhắc đến được diễn giải như Bảo Ðại. Thực ra, Bullitt chỉ đề nghị duy trì một chế độ chống Cộng thân hữu ở Ðông Dương.( 80)
Từ ngày 7/1/1948, Bollaert và Bảo Ðại lại bắt đầu gặp nhau tại Geneva để thương thuyết về điều kiện hợp tác. Nhưng hai bên không đạt được kết quả nào. Một mặt, vì mặc cảm trước sự công kích, chửi rủa tục tằn của hệ thống tuyên truyền Việt Minh Cộng Sản, Bảo Ðại nói không thỏa mãn với những điều thỏa thuận tại Hạ Long, và đòi nhiều nhượng bộ hơn. Mặt khác, Bảo Ðại không tin tưởng Bollaert, và lo ngại mình đang trở thành con cờ của Pháp trong việc hoà đàm với Việt Minh. Bởi thế, thương thuyết tạm ngưng sau ngày 12/1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét