Anthony Grey & Nguyễn Ước (Full)
nguồn: vnthuquan
Nguồn: NGUYỄN ƯỚC
Được bạn: Admin đưa lên
vào ngày: 23 tháng 12 năm 2006
http://vnthuquan.net/truyen/anhminhhoa/tranghuyet.jpg
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:47 AM
Lời Nói Đầu
XUẤT BẢN LẦN THỨ BA
có hiệu đính và bổ túc
NXB INTERNET
CANADA – HOA KỲ – 2007
Những gì quá khứ mới chỉ là khúc dạo đầu.
• l Shakespeare
Tôi cảm thấy rằng được sống sót là mắc nợ người đã chết điều gì đó. Đó là nỗi ám ảnh phải nhớ đến họ, và ai không nhớ đến người đã chết là thêm lần nữa phản bội họ.
• l Elie Wiesel, nhà văn
Giải Nobel Hòa bình 1986
Lời Nói Đầu
Anthony Grey
Thư gửi bạn đọc Trăng Huyết
Trong mùa hè năm 2004, một người bạn Việt Nam trẻ tuổi của tôi hiện học tại Anh đã đọc Trăng Huyết, bản phóng tác bằng tiếng Việt. Cô đối chiếu các phần của cuốn ấy với cuốn tiểu thuyết nguyên bản SAIGON của tôi, là cuốn hình thành cái lõi cốt yếu của tác phẩm khuếch đại và mới của người bạn đồng tác giả Nguyễn Ước. Vì tôi không biết và không đọc được tiếng Việt nên lúc ấy, tôi không có ý niệm về những gì Nguyễn Ước đã làm đối với bản văn của tôi. Trước khi thực hiện tác phẩm ấy, anh không tham khảo ý kiến tôi, cũng không tìm cách xin phép tôi cho tới khi anh đã hoàn tất. Thậm chí khi viết thư này, tôi vẫn không biết thật cặn kẽ những gì chứa đựng trong 400 trang mà anh thêm vào — ngoài việc biết rằng những thay đổi trong giai đoạn sau năm 1945 thì nhiều hơn trong phần đầu của cuốn truyện.
Trước đây, tôi biết qua lời của chính Nguyễn Ước giải thích với tôi rằng anh nồng nhiệt tin tưởng cuốn tiểu thuyết của tôi với những đoạn thông tin và diễn dịch do anh thêm vào là “bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hoà bình mà người dân Việt Nam đang trông đợi”. Trong lần liên lạc thứ nhất, anh nói với tôi rằng anh cảm thấy nó có sức mạnh “hòa giải và giải phóng” người dân Việt Nam khỏi những xung khắc thời quá khứ. Nhận thấy mình xúc động bởi niềm xác tín đó, tôi bất giác quyết định không chống lại cũng như không phản đối tức thời việc Nguyễn Ước đã làm.
Tuy thế, tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi người bạn sinh viên Việt Nam trẻ tuổi tại Anh ấy nói với tôi rằng cô rất xúc động qua những gì cô đã đọc. Cô nói, “Tôi xin cám ơn ông đã viết cuốn sách này. Tôi đã biết được rất nhiều về xứ sở và dân tộc của tôi mà trước đây tôi chưa hề biết. Tôi nghĩ rằng giá trị lớn lao nhất của cuốn truyện này là nó bảo tồn ký ức lịch sử cho những thế hệ mới của người Việt trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tôi cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam — và cũng cho mọi người khác nữa.”
Vào năm 2005 này, ba mươi năm sau ngày Sàigòn thất thủ, dường như thế giới của chúng ta đang là chốn nguy hiểm hơn bao giờ hết. Cuộc chiến tranh cay đắng ở I-rắc do người Mỹ khởi động xâm lăng đầu năm 2003 đang ngày càng bị so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970. Dù sao, khủng bố và giết chóc vì lý do tôn giáo và chính trị đang lan rộng toàn cầu hơn bao giờ hết.
Dường như toàn thể hành tinh của chúng ta hiện sống với trạng thái đề phòng hằng ngày sẽ có thêm một hành động “khủng bố” tập thể nữa. Trong tình huống ấy, điều quan yếu là những người mà số lượng ngày càng nhiều thêm trên thế giới, đang mãnh liệt khao khát chấm dứt vĩnh viễn toàn bộ chiến tranh và tàn sát, nên tin rằng có những lý do để cảm thấy mình được khích lệ. Đối với tất cả chúng ta, điều quan trọng là có những nền tảng để tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn và để không bị ám ảnh bởi sợ hãi.
Ở cấp độ cao nhất, mục đích tái bản cuốn trường thiên tiểu thuyết khuếch đại [Trăng Huyết] này về những cuộc chiến lâu dài và cay đắng tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 là để nhắc nhở chúng ta thảm kịch kinh hoàng và vô ích của mọi cuộc chiến, cách riêng các cuộc chiến xuẩn động. Cả Việt Nam lẫn I-rắc đều rơi vào bản liệt kê buồn bã đó. Mọi người đều đau khổ trong các thời kỳ bi thảm như thế và chẳng một ai thật sự chiến thắng. Chiến tranh biến hết thảy chúng ta thành nạn nhân. Lúc này, điều quan yếu cho thế giới của chúng ta là tiến tới một trạng thái sinh tồn trong đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề giữa các dân tộc và các quốc gia mà chẳng cần tới bạo động và giết chóc. Cũng quan yếu không kém là việc chữa trị những vết thương khủng khiếp về tâm lý và thể lý của quá khứ, để giúp tạo dựng một tương lai hòa bình và tốt lành hơn cho tất cả chúng ta.
Khi cuốn SAIGON được xuất bản lần đầu năm 1982, tôi ngạc nhiên và vui thích thấy nó trở thành sách bán chạy ở tầm quốc tế tại 15 nước, nói chín ngôn ngữ khác nhau. Thật rất hài lòng khi tại Việt Nam và Hoa Kỳ, nó được dùng trong lớp học để dạy dỗ các sinh viên sĩ quan trẻ tuổi của hải quân và quân đội — Đại học Quốc phòng của Quân đội Nhân dân tại Hà Nội và Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Anapolis. Nguyễn Ước đọc cuốn tiểu thuyết ấy lần đầu tiên bằng tiếng Anh lúc anh tới được trại tị nạn ở Indonesia sau khi trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền vào cuối thập niên 1980. Anh kể rằng anh đã khóc khi đọc nó hết phần này sang phần khác. Mãi về sau, anh quyết định dịch và tự chủ xướng việc khuếch đại vì anh cảm thấy cuốn truyện ấy, với sự thêm vào các sự kiện lịch sử cùng hư cấu nào đó của anh như một kẻ trong cuộc, sẽ khiến độc giả người Việt nhận ra rằng sự thật giải phóng chúng ta và hoà giải chúng ta.
Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ.
Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn.
Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày.
• Bản dịch của Nguyễn Ước.
• Xin xem nguyên văn tiếng Anh ở cuối Tập IV
Lời Giới Thiệu
của Nguyễn Minh Diễm
Năm 1982, một nhà báo Anh từng làm việc và trải qua tù đày tại Trung Quốc nhưng chưa bao giờ đặt chân đến Việt Nam tên là Anthony Grey xuất bản cuốn tiểu thuyết SAIGON dày gần 800 trang khổ lớn (bản in của Nxb Little, Brown and Company-Boston-Toronto năm 1982 dày 787 trang kể cả bạt). Có thể nói Saigon trước hết là một tiểu thuyết lịch sử, vì nó dựa trên những sự kiện có thật, những diễn biến có thật, nhiều nhân vật có thật và các tình tiết của truyện trải dài theo dòng chảy của 50 năm lịch sử Việt Nam, từ 1925 đến 1975. Nó còn mang ý nghĩa lịch sử hơn khi mà để xây dựng tác phẩm, Anthony Grey đã phải bỏ ra suốt ba năm nghiên cứu sách vở tại các thư viện và thư khố ở Paris, Luân đôn, Washington D.C. và đại học Harvard. Ông đã tham khảo vài trăm cuốn sách và hàng ngàn tài liệu liên quan đến Việt Nam. Ông cũng từng gặp, trao đổi và xin ý kiến của các sử gia, nhà nghiên cứu và nhà báo nổi tiếng thế giới về những vấn đề của Việt Nam. Trong đó, có chuyên gia về Việt Nam trước thế chiến thứ hai Virginia Thompson; chuyên gia về Điện Biên Phủ Jules Roy, nhà nghiên cứu Mặt Trận Giải phóng Miền Nam Douglas Pike, tiểu thuyết gia Frank Snepp và nhiều người khác nữa, kể cả các chuyên gia về tình báo và quân sự ở Đông Nam Á. Tinh thần và cung cách làm việc như thế cho thấy tham vọng của Grey là dựng lại cả một giai đoạn lịch sử của Việt Nam như một tổng hợp, như một bức tranh toàn cảnh. Chính vì tinh thần làm việc nghiêm túc như thế mà Saigon đã được dùng như tài liệu giảng dạy về hai cuộc chiến Đông Dương cũng như lịch sử Việt Nam cho sinh viên sĩ quan Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis. Tác phẩm cũng đựơc dịch từng phần để làm sách tham khảo cho sinh viên sĩ quan của Học viện Quân sự Hà Nội, theo bức thư Anthony Grey viết cho Nguyễn Ước được in lại ở cuối sách.
Nhưng trước hết, Saigon là một tiểu thuyết, cho dù nó có bám sát lịch sử đến đâu, và Anthony Grey khi viết cuốn truyện dài này đã có một mục đích rõ rệt, như ông xác nhận sau đó, là mang đến sự hoà giải, để “góp phần hàn gắn những vết thương khủng khiếp và những đau khổ mà người dân ở mọi phía trong xứ sở Việt Nam vốn đã bị tả tơi vì một cuộc chiến quá dài, dài hơn của bất cứ xứ sở nào”. Chính vì hoài bão mục đích ấy, mà các nhân vật trong Saigon đều được Anhony Grey cho một sức sống mãnh liệt, kiên quyết và có phần cực đoan, mê mị, lúc yêu đương cũng như lúc thù hận, lúc sống, cũng như lúc chết. Nếu coi Saigon là một sân khấu, thì những con người mà Anthony Grey tạo ra và đưa lên sàn diễn đều đã sống hết mình, hoạt động hết năng lực và không nghỉ ngơi trước khi rời khỏi ánh đèn. Những tính cách mạnh mẽ, năng động và cực đoan ấy của nhân vật có thể là do bản tính cá nhân, có thể là do hoàn cảnh hun đúc, mà cũng có thể là do một thế lực nào đó cố tình huấn luyện để sử dụng, nhưng nhất định chúng là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch kéo dài quá lâu nơi đất nước Việt Nam, và khiến dân tộc chúng ta đã phải trả một giá quá đắt.
Tuy nhiên, dù Anthony Grey tài ba cách nào thì ông cũng vẫn là một người phương Tây từ ngoài nhìn vào đất nước Việt Nam, ông có tài giỏi cách mấy thì ông vẫn không thể nhập vai người Việt Nam, và khung cảnh sống cũng như các nhân vật ông tạo ra vẫn không tránh khỏi có phần khập khiễng, lạc loài dưới con mắt phân tích của độc giả người Việt vì họ chỉ là “người Việt gốc ngoại”, được xây dựng từ kiến thức, sách vở về đất nước, con người cũng như lịch sử và văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, giống như công chúa ngủ trong rừng, Saigon đã gặp nguyễn Ước, để khung cảnh và các nhân vật của nó được thổi một luồng sinh khí Việt Nam để chúng được tái đầu thai. Nguyễn Ước đã làm một công việc chưa từng có là viết thêm vào một cuốn tiểu thuyết đã xuất bản và đang lưu hành. Từ trên 800 trang của Saigon, ông đã viết thêm khoảng 1/3 nữa để thành trường thiên tiểu thuyết TRĂNG HUYẾT dài hơn 1200 trang (Bản in của nhà xuất bản Nhân Văn, Canada năm 2004 gồm hai cuốn cùng khổ với Saigon, dày 621 trang và 645 trang). Mặc dù giữ nguyên bố cục của Saigon với tám phần, bắt đầu từ năm 1925 đời vua Khải Định, cho đến cuối tháng Tư năm 1975, Nguyễn Ước đã “viết chêm vào, khi thì trọn một chương, khi thì vài đoạn nghĩ tưởng, vài lời đối thoại, nhiều nhân vật phụ, v.v. để chính đính, minh hoạ; đào sâu tâm lý của các nhân vật người Việt, bổ túc nhiều chi tiết về hoàn cảnh chính trị, khuynh hướng cách mạng bản địa và thời đại, sự kiện lịch sử, nghi lễ cung đình, phong cảnh, nếp nghĩ, tục lệ và văn hoá dân tộc, v.v.” và điều mà ông “chủ tâm hơn cả là cố gắng để nói lên Việt tính của nhân vật và sự kiện, đồng thời trình bày sao cho hợp với cảm quan của độc giả người Việt”.
Chính trong ý nghĩa ấy, có thể nói là Nguyễn Ước đã góp phần sáng tạo các nhân vật, và cả khung cảnh sinh hoạt nữa để họ trở thành những người Việt Nam, sống trong xã hội Việt Nam với những nét văn hoá đặc thù và nhờ thế mà độc giả người Việt chúng ta có thể buồn vui theo họ. Nguyễn Ước quả nhiên cũng là một tác giả, và điều độc đáo đã được thực hiện: một tác phẩm tổng hợp của hai người chưa bao giờ gặp nhau, hoàn thành phần nọ cách phần kia hơn 20 năm đã ra đời như một tổng hợp của kiến thức, tài năng và cảm tính.
Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ.
Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn.
Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày.
• Bản dịch của Nguyễn Ước.
• Xin xem nguyên văn tiếng Anh ở cuối Tập IV
Lời Giới Thiệu
của Nguyễn Minh Diễm
Năm 1982, một nhà báo Anh từng làm việc và trải qua tù đày tại Trung Quốc nhưng chưa bao giờ đặt chân đến Việt Nam tên là Anthony Grey xuất bản cuốn tiểu thuyết SAIGON dày gần 800 trang khổ lớn (bản in của Nxb Little, Brown and Company-Boston-Toronto năm 1982 dày 787 trang kể cả bạt). Có thể nói Saigon trước hết là một tiểu thuyết lịch sử, vì nó dựa trên những sự kiện có thật, những diễn biến có thật, nhiều nhân vật có thật và các tình tiết của truyện trải dài theo dòng chảy của 50 năm lịch sử Việt Nam, từ 1925 đến 1975. Nó còn mang ý nghĩa lịch sử hơn khi mà để xây dựng tác phẩm, Anthony Grey đã phải bỏ ra suốt ba năm nghiên cứu sách vở tại các thư viện và thư khố ở Paris, Luân đôn, Washington D.C. và đại học Harvard. Ông đã tham khảo vài trăm cuốn sách và hàng ngàn tài liệu liên quan đến Việt Nam. Ông cũng từng gặp, trao đổi và xin ý kiến của các sử gia, nhà nghiên cứu và nhà báo nổi tiếng thế giới về những vấn đề của Việt Nam. Trong đó, có chuyên gia về Việt Nam trước thế chiến thứ hai Virginia Thompson; chuyên gia về Điện Biên Phủ Jules Roy, nhà nghiên cứu Mặt Trận Giải phóng Miền Nam Douglas Pike, tiểu thuyết gia Frank Snepp và nhiều người khác nữa, kể cả các chuyên gia về tình báo và quân sự ở Đông Nam Á. Tinh thần và cung cách làm việc như thế cho thấy tham vọng của Grey là dựng lại cả một giai đoạn lịch sử của Việt Nam như một tổng hợp, như một bức tranh toàn cảnh. Chính vì tinh thần làm việc nghiêm túc như thế mà Saigon đã được dùng như tài liệu giảng dạy về hai cuộc chiến Đông Dương cũng như lịch sử Việt Nam cho sinh viên sĩ quan Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis. Tác phẩm cũng đựơc dịch từng phần để làm sách tham khảo cho sinh viên sĩ quan của Học viện Quân sự Hà Nội, theo bức thư Anthony Grey viết cho Nguyễn Ước được in lại ở cuối sách.
Nhưng trước hết, Saigon là một tiểu thuyết, cho dù nó có bám sát lịch sử đến đâu, và Anthony Grey khi viết cuốn truyện dài này đã có một mục đích rõ rệt, như ông xác nhận sau đó, là mang đến sự hoà giải, để “góp phần hàn gắn những vết thương khủng khiếp và những đau khổ mà người dân ở mọi phía trong xứ sở Việt Nam vốn đã bị tả tơi vì một cuộc chiến quá dài, dài hơn của bất cứ xứ sở nào”. Chính vì hoài bão mục đích ấy, mà các nhân vật trong Saigon đều được Anhony Grey cho một sức sống mãnh liệt, kiên quyết và có phần cực đoan, mê mị, lúc yêu đương cũng như lúc thù hận, lúc sống, cũng như lúc chết. Nếu coi Saigon là một sân khấu, thì những con người mà Anthony Grey tạo ra và đưa lên sàn diễn đều đã sống hết mình, hoạt động hết năng lực và không nghỉ ngơi trước khi rời khỏi ánh đèn. Những tính cách mạnh mẽ, năng động và cực đoan ấy của nhân vật có thể là do bản tính cá nhân, có thể là do hoàn cảnh hun đúc, mà cũng có thể là do một thế lực nào đó cố tình huấn luyện để sử dụng, nhưng nhất định chúng là nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch kéo dài quá lâu nơi đất nước Việt Nam, và khiến dân tộc chúng ta đã phải trả một giá quá đắt.
Tuy nhiên, dù Anthony Grey tài ba cách nào thì ông cũng vẫn là một người phương Tây từ ngoài nhìn vào đất nước Việt Nam, ông có tài giỏi cách mấy thì ông vẫn không thể nhập vai người Việt Nam, và khung cảnh sống cũng như các nhân vật ông tạo ra vẫn không tránh khỏi có phần khập khiễng, lạc loài dưới con mắt phân tích của độc giả người Việt vì họ chỉ là “người Việt gốc ngoại”, được xây dựng từ kiến thức, sách vở về đất nước, con người cũng như lịch sử và văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, giống như công chúa ngủ trong rừng, Saigon đã gặp nguyễn Ước, để khung cảnh và các nhân vật của nó được thổi một luồng sinh khí Việt Nam để chúng được tái đầu thai. Nguyễn Ước đã làm một công việc chưa từng có là viết thêm vào một cuốn tiểu thuyết đã xuất bản và đang lưu hành. Từ trên 800 trang của Saigon, ông đã viết thêm khoảng 1/3 nữa để thành trường thiên tiểu thuyết TRĂNG HUYẾT dài hơn 1200 trang (Bản in của nhà xuất bản Nhân Văn, Canada năm 2004 gồm hai cuốn cùng khổ với Saigon, dày 621 trang và 645 trang). Mặc dù giữ nguyên bố cục của Saigon với tám phần, bắt đầu từ năm 1925 đời vua Khải Định, cho đến cuối tháng Tư năm 1975, Nguyễn Ước đã “viết chêm vào, khi thì trọn một chương, khi thì vài đoạn nghĩ tưởng, vài lời đối thoại, nhiều nhân vật phụ, v.v. để chính đính, minh hoạ; đào sâu tâm lý của các nhân vật người Việt, bổ túc nhiều chi tiết về hoàn cảnh chính trị, khuynh hướng cách mạng bản địa và thời đại, sự kiện lịch sử, nghi lễ cung đình, phong cảnh, nếp nghĩ, tục lệ và văn hoá dân tộc, v.v.” và điều mà ông “chủ tâm hơn cả là cố gắng để nói lên Việt tính của nhân vật và sự kiện, đồng thời trình bày sao cho hợp với cảm quan của độc giả người Việt”.
Chính trong ý nghĩa ấy, có thể nói là Nguyễn Ước đã góp phần sáng tạo các nhân vật, và cả khung cảnh sinh hoạt nữa để họ trở thành những người Việt Nam, sống trong xã hội Việt Nam với những nét văn hoá đặc thù và nhờ thế mà độc giả người Việt chúng ta có thể buồn vui theo họ. Nguyễn Ước quả nhiên cũng là một tác giả, và điều độc đáo đã được thực hiện: một tác phẩm tổng hợp của hai người chưa bao giờ gặp nhau, hoàn thành phần nọ cách phần kia hơn 20 năm đã ra đời như một tổng hợp của kiến thức, tài năng và cảm tính.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:48 AM
Trường thiên tiểu thuyết TRĂNG HUYẾT kết thúc khi chiếc máy bay trực thăng cuối cùng rời khỏi sân thượng toà đại sứ Mỹ tọa lạc ngay tại trung tâm thành phố Sàigòn rạng sáng ngày 30 tháng tư năm 1975, như một dấu chấm hết cho cái tên “Saigon” từng tồn tại gần 300 năm trước của thành phố được mệnh danh là “hòn ngọc Viễn đông”. Rất có thể sự bức tử của cái tên ấy đã khiến nó được dùng làm tên cho cuốn tiểu thuyết của Anthony Grey. Còn tên Trăng Huyết mà Nguyễn Ước đặt cho cuốn tiểu thuyết viết chung với Grey từ Saigon thì lại thành hình từ nỗi xúc động khi trôi theo nửa thế kỷ đau thương ly loạn trên khắp đất nước Việt Nam vì, như ông nói ở cuối sách, “trăng huyết” là trăng đỏ như máu, trăng báo điềm, và làm chứng cho nửa thế kỷ đau thương của đất nước.
Khởi điểm của truyện là năm 1925, khi mà sự thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam bắt đầu gần 70 năm trước đó đang bị lung lay tận gốc bởi sự hà khắc của chế độ thực dân đã lên đến cực điểm, cũng có nghĩa là nỗi hận thù của dân chúng đã đến mức không thể đè nén được, trong khi số người đựơc giáo dục theo Tây học, có kiến thức về nhân quyền, dân quyền thì đã đủ để trở thành một lực lượng lãnh đạo có khả năng.
Năm mươi năm của cuốn trường thiên tiểu thuyết Trăng Huyết có thể coi như giai đoạn sôi động nhất trong lịch sử cận và hiện đại Việt Nam, nếu so sánh với 25 năm trước đó, và 30 năm sau đó. Mà sôi động thật, vì một khi đã bắt đầu bắt đầu dở sách ra, thì người đọc liền bị cuốn hút vào nhịp sống sôi nổi của các nhân vật, sự mãnh liệt và cuồng nhiệt của từng cảnh huống cũng như sức đi vũ bão của các sự kiện lịch sử. Sự thảnh thơi ngồi yên thưởng thức một ly cà phê hay một ly rượu hình như chỉ xuất hiện một lần ở đầu truyện, khi các vị khách rồi sẽ thành nhân vật chính của truyện mới chỉ vào đến lãnh hải Việt Nam, chứ chưa đặt chân lên đất Sàigòn. Sau đó, thì không có lúc nào và không có ai được “rảnh rang” như thế nữa. Tương tự như nhiều tác phẩm vĩ đại kinh điển, ngay trong phần đầu dài 151 trang của Trăng Huyết (từ gần 100 trang của Saigon, với tiểu tựa rất súc tích và giầu hình tượng: Đời thuộc địa là thế!), tác giả đã giới thiệu các nhân vật chính của truyện, bao gồm thành viên của bốn gia đình mang tính đại biểu cho cái xã hội chứa đầy mâu thuẫn của Việt Nam trong suốt mấy chục năm của truyện. Tác giả đã minh họa nhiều cảnh tượng tiêu biểu của cái xã hội phân hóa, chất chứa vô vàn bất công, bất nhân, bất nghĩa và vô lý, cùng những đối nghịch không thể hóa giải, để xây dựng những nhân vật có thể coi như đại diện của từng thành phần. Những nhân vật ấy, theo diễn biến của lịch sử và định mệnh trải dài gần 1200 trang sách của 50 năm biến động nhất trong lịch sử Việt Nam, rồi đây sẽ gắn liền với nhau bằng tình yêu cũng như thù hận. Tình yêu thì cuồng nhiệt, và hận thù thì sục sôi, nhưng cả hai loại tình cảm ấy đều kiên định, đều cực đoan, và đều có phần mê mị do sự tàn khốc của định mệnh, cũng như đòi hỏi của hoàn cảnh hay phương pháp đấu tranh của các phe phái và chủ nghĩa.
Nhân vật chính của Trăng Huyết là Joseph Sherman, người Mỹ, đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1925, khi mới 15 tuổi. Cậu cùng cha mẹ và anh đến thăm miền Nam Việt Nam, lúc ấy là một thuộc địa của Pháp. Là con của một thượng nghị sĩ, sinh ra và lớn lên trong một quốc gia tự do dân chủ, được giáo dục về giá trị cao quý của con người “vốn được sinh ra bình đẳng, và được tạo hoá ban cho những quyền không ai có thể xâm phạm, trong đó có quyền đựơc sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc”, Joseph đã có dịp được chứng kiến tận mắt những cảnh ngộ trong đó con người bị đối xử như một con vật, một phương tiện, một dụng cụ, hay một trò chơi tùy ý và tùy sức “sáng tạo” của chủ nhân, mà những chủ nhân ấy thường khi lại bệnh hoạn, hay ít nhất lệch lạc tính dục, khiến thú vui của họ càng mang vẻ quái đản, hoang dã và tàn bạo hơn. Đó chính là xã hội Việt Nam vào năm 1925, dưới sự cai trị trực tiếp của người Pháp.
Cuối Phần thứ nhất, nghĩa là chỉ sau một thời gian ngắn ở Việt Nam, cậu thiếu niên Joseph đã có những thay đổi, chuẩn bị cho cậu sẵn sàng bắt đầu chuyến phiêu lưu trải dài đến dòng cuối của truyện: Cậu đã lần đầu tiên hưởng thú vui của dục tình, đã gặp những nhân vật Pháp cũng như Việt rồi đây sẽ trở thành đại diện cho những lực lượng và những phe phái chính trong cuộc chiến tranh nhiều mặt, kéo dài nhiều giai đoạn, mà lúc nào cũng khốc liệt và không bao giờ khoan thứ. Quan trọng nhất là Joseph gặp Kiều Lan, lúc ấy là một cô bé mười tuổi trong một hoàn cảnh đầy kịch tính. Cô là định mệnh của cậu, vì sau đó, sợi chỉ nối kết mọi diễn tiến trong truyện chính là mối tình vừa lãng mạn, dữ dội, vừa oan nghiệt như đã tiền định từ kiếp nào, lại vừa mang tính đam mê sáng tạo của hai người. Mối tình ấy, từ khi nẩy sinh, đã chi phối mọi vui buồn, mọi diễn tiến, mọi quyết định trong đời Joseph dù chính anh ý thức được hay không.
Trong bốn người của gia đình Joseph đến thăm Việt Nam, thì đến cuối chương một, anh trai đã chết thảm, ông bố mất một cánh tay và vĩnh viễn mang bộ mặt biến dạng do tai nạn trong một chuyến đi săn ở gần Sàigòn. Thê thảm hơn, bà mẹ không còn là người cậu tuyệt đối kính yêu nữa, và niềm tin về sự bình đẳng của loài người như một tặng phẩm của tạo hoá cũng đã trôi đi theo những cơn mưa nhiệt đới trong rừng, khi cậu đứng chết trân chứng kiến những cảnh mà cho đến cuối truyện, và có lẽ cuối đời nữa, không bao giờ rời khỏi tâm trí của cậu.
Gia đình thứ nhì được giới thiệu trong chương đầu tiên của truyện là vợ chồng Ngô Văn Lộc cùng hai con trai Ngô Văn Đồng và Ngô Văn Học. Đây là gia đình mà vì lòng hận thù tổng hợp tận cùng với thực dân Pháp, đã theo cách mạng, mới đầu là Quốc Dân đảng, rồi Việt Minh Cộng sản, và sau nữa là Bắc Việt Nam. Ước vọng duy nhất của gia đình này lúc đầu là giết ngoại xâm, rồi sau là để trả thù. Lòng hận thù của các thành viên trong nhà này cao và mãnh liệt đến nỗi mỗi khi họ xuất hiện, người đọc lại hồi hộp vì biết sẽ có máu đổ, mặc dù chưa biết là ai sẽ chết. Gia đình thứ ba là hai cha con người Pháp Jacques và Paul Devraux, lúc bấy giờ là chủ nhân của gia đình Lộc. Jacques sau trở thành người cầm đầu mật thám Pháp tại Đông Dương, còn Paul là sĩ quan quân đội Pháp trú đóng tại Yên Bái rồi Điện Biên Phủ. Cuối cùng là gia đình quan đại thần Trần Văn Hiếu của Nam Triều. Trong khi ông Hiếu trung thành với triều đình Huế và do đó cực kỳ tôn kính người Pháp, thì người con trai thứ của ông là Trần Văn Kim lại cấp tiến và theo cách mạng, về sau trở thành một cán bộ Cộng sản cao cấp. Con gái út của gia đình là cô Lan mặc dù được giáo dục theo lễ giáo phong kiến, nhưng lại mang một tinh thần nổi loạn. Cô trao thân cho Joseph sau khi gặp nhau chỉ vài lần và có một con gái với anh ta trước khi lấy Paul. Con trai của Lan với Paul sau trở thành sĩ quan Quân lực Việt nam Cộng hòa. Người về sau tử trận chỉ mấy năm sau khi tốt nghiệp Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Chồng Tuyết theo Cộng sản, nên bị chính phủ miền Nam bắt và tra tấn đến chết, để lại cho cô hai con nhỏ. Tuyết quyết tâm đòi nợ máu nên gia nhập Mặt trận GPMN và chạm trán tại trận địa mà không biết với người anh cùng mẹ khác cha. Tuyết và hai con - một trai tên Chương, một gái tên Trinh, sau Tết Mậu Thân ra sống ở ngoài Bắc. Tuyết và Chương chết mất xác trong một vụ oanh tạc của không quân Mỹ. Trinh theo đoàn quân Nam tiến, gặp được Joseph và hai ông cháu lên được chuyến trực thăng cuối cùng rời toà đại sứ Mỹ ở Sàigòn lúc rạng sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975. Câu chuyện chấm dứt với lời Joseph vỗ về bên tai Trinh: Cháu đừng lo. Ông cháu mình an toàn rồi - mọi sự rồi sẽ ổn thoả hết.
Tác giả đã cho Joseph Sherman thực hiện một cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy bất ngờ dọc theo 50 năm của lịch sử Việt Nam. Anh ghé đất nước Việt Nam nhiều lần, mỗi lần là một cột mốc của đời anh, mà cũng là cột mốc của lịch sử. Không chỉ có mặt ở Sàigòn vào những thời điểm đặc biệt như khi vừa chấm dứt Thế chiến hai, trong giai đoạn cuối của Đệ nhất Cộng hòa, trong giai đoạn cao điểm của cuộc chiến, những ngày Tết Mậu Thân, và khi Sàigòn thất thủ, Jospeh còn lái xe dọc theo quốc lộ một, chứng kiến cảnh hoang tàn của chiến tranh và nạn đói. Anh cũng ra Huế để thấy cảnh vua Bảo Đại thoái vị. Anh còn có mặt ở hang Pắc bó vào khi đội Tuyên truyền Giải phóng quân bắt đầu thành lập, ở Hà nội trong ngày 2 tháng Chín năm 1945, và từng đến thăm doanh trại của quân Pháp tại Điện Biên Phủ. Joseph cũng hiện diện tại Paris trong thời gian các phe phái đang thảo luận về dự thảo một hiệp định đình chiến năm 1973, và tại Hoa Kỳ vào khi phong trào phản chiến lên đến cao điểm. Chính vì thế, mà trong truyện, tất cả các sự kiện chính trong 50 năm lịch sử cận và hiện đại của Việt Nam đều đựơc nói đến. Không chỉ nói đến, mà còn mô tả một cách tương đối chi tiết và chính xác. Không chỉ cảnh, mà cả con người nữa cũng được mô tả bằng những nét rất sắc rất gọn, từ những nhân vật phụ chỉ nhằm minh họa một hoàn cảnh, cho đến những nhân vật lịch sử như vua Bảo Đại, anh em ông Ngô Đình Diệm, ông Hồ Chí Minh, ông Dương văn Minh vân vân. Bạn đọc có thể đặt câu hỏi rằng có lý nào mà tất cả các nhân vật ấy lại có thể xuất hiện trong dòng đời của một người thôi mà không có sự gượng ép nào trong việc xây dựng truyện, nhưng khi dong ruổi cùng Joseph qua hơn 1000 trang của Trăng Huyết, ta sẽ thấy là chuyện ấy xẩy ra thực, xẩy ra một cách nhuần nhuyễn và hợp lý nhờ những thủ thuật của tác giả. Rất có thể là tác giả đã muốn tận dụng mọi kiến thức của mình về lịch sử Việt Nam, nhưng lại nhân đó, cho chúng ta được thưởng thức một trường thiên tiểu thuyết lịch sử hàng đầu cho đến nay.
Khi đọc đến dòng cuối của truyện, biết rằng hai ông cháu Joseph và Trinh sống, sẽ an toàn và sẽ bắt đầu một cuộc đời mới, người đọc cảm thấy bàng hoàng vì lẽ tất cả các nhân vật khác đều đã chết. Không một ai chết bình thường, và không một ai chết bình thản. Tất cả đều chết dữ dội và trong hận thù:
Người chết đầu tiên là anh Chuck của Joseph, bị trâu rừng húc trong một cuộc săn: Chuck ngã xuống, bụng bị đâm thủng. Trong khi cậu quằn quại đau đớn dưới đất, con trâu húc cậu thêm cú nữa. Trong cú húc thứ hai, một chiếc sừng trâu thọc vô phổi Chuck nơi vùng cao phía bên trái lồng ngực. Mũi sừng nhọn hoắt đâm thấu trái tim cậu. Trong khi con vật rống lên, ngúc ngắc đầu trên cơ thể Chuck, cậu thấy sát ngay trước mặt mình những sợi lông xám quanh cái mõm đen sì và rộng. Chuck ngã xuống, bụng bị đâm thủng. Trong khi cậu quằn quại đau đớn dưới đất, con trâu húc cậu thêm cú nữa. Trong cú húc thứ hai, một chiếc sừng trâu thọc vô phổi Chuck nơi vùng cao phía bên trái lồng ngực. Mũi sừng nhọn hoắt đâm thấu trái tim cậu. (Phần I).
Gia đình Ngô Văn Lộc chết cả nhà: Vợ Lộc chết trong tù vì bị mật thám Pháp tra tấn. Lộc bị Pháp bắn chết ở Sàigòn trong khoảnh khắc bắt đầu cuộc Nam bộ Kháng chiến, Học chết vì bị kết án tử hình khi thất bại trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, còn hai cha con Đồng thì tan xác khi được đưa từ Bắc vào chiến đấu tại miền Nam dưới danh nghĩa của Mặt trận Giải phóng Miền Nam: Đang cố hết sức kéo thi thể con trai vào miệng địa đạo, Ngô văn Đồng bị bắn trúng. Trong chớp mắt, hai quả tên lửa làm nổ tung thân thể hai cha con ra hàng ngàn mảnh. Một luồng khói trắng khổng lồ và đất đen phụt lên thành hình xoắn ốc, làm mù mịt nơi tử nạn. Và chung quanh họ, địa đạo sụp xuống, biến thành một nấm mồ chôn cả cha lẫn con. (Phần VI).
Cả năm người của gia đình Ngô Văn Lộc, kể cả con trai của ông, đều chết không toàn thây với lòng thù hận không nguôi, trong những tình huống khác nhau của chiến tranh. Cái chết của họ, cũng như của hai cha con kẻ thù bất cộng đái thiên của họ là gia đình Devraux cũng cho thấy cái sự bất tận của hận thù, một trong những góc độ của tình hình xã hội Việt Nam trong thời gian của cuốn tiểu thuyết: Jacques bị Cộng sản ám sát, còn Paul thì bị Việt Minh bắn chết khi Điện Biên Phủ thất thủ, sau khi quân đội Pháp đã đầu hàng, và người quyết tâm tìm giết anh chính là Đồng: Với vẻ mặt méo mó quằn quại, người Việt Nam ngoéo chặt ngón tay vào cò súng tiểu liên trong vài giây. Và người sĩ quan Pháp té chúi nhủi vào vách hầm rồi úp mặt xuống mặt đất đầy bùn, không một tiếng kêu và không bao giờ còn cử động. (Phần V)
Hai cha con Lan cũng không thoát khỏi cái chết nát thây ngay trên đường phố Sàigòn vì một chú bé đang học làm biệt động thành: Quả lựu đạn miểng buộc nơi bắp đùi cậu bé phát nổ chát chúa. Nó hất tung toàn thân Trần văn Hiếu và cậu bé lên khỏi mặt đất, rồi cả hai cùng rớt xuống thành một đống nhầy nhụa. Nhiều người đi ngang cũng gục xuống chung quanh cả hai, dưới con mắt kinh hoàng của đám tây thuộc địa đang ngồi uống cà phê bên trong tầng trệt khách sạn Continental. Máu của người đi ngang trộn với máu của kẻ sát nhân và nạn nhân thành một vũng lênh láng trên vĩa hè. Nhờ té ngửa người dưới đất khi lựu đạn nổ nên Joseph thoát nạn. Nhưng khi đứng lên và đi loạng choạng tới vị trí vừa xảy ra cuộc ám sát, anh nhìn thấy Lan. Thân thể nàng nằm cách cha nàng khoảng nửa thước, co quắp và rạn vỡ. Anh không thấy được mặt Lan vì nàng nằm sấp trên vĩa hè nhưng chiếc áo lụa trắng nàng mặc biến lẹ làng thành màu đỏ thẩm trong ánh nắng chói lọi. Và từ trên đầu chít chiếc khăn xanh kỷ niệm tới khắp chân tay mảnh mai của nàng không có một dấu hiệu động đậy nào. (Phần V).
Và rồi Tuyết, con người đau khổ bậc nhất trong truyện cũng chết bất ngờ và đau đớn cùng con trai trong một trận đánh bom của B 52 tại Hà Nội: Tới giữa trưa, Trinh [con gái của Tuyết] nhìn chằm chặp thi thể dập nát của Tuyết và Chương vừa được người ta kéo lên chung một lượt. Hai mẹ con đang rúc vào nhau khi quả bom xoáy trúng hầm trú ẩn. Cả mẹ lẫn con cùng tử nạn trong khi ôm lấy người nhau. Gào từng chặp, Trinh điên cuồng lao vào thi hài mẹ. Phải mất gần mười phút vừa năn nỉ vừa dỗ dành, nhân viên cứu hộ mới nhấc bổng được con bé lên, đưa nó đi khỏi hiện trường. (Phần VIII) Và còn nhiều cái chết khác nữa, kể cả chết vì bị ném xuống biển, như nhân vật lạ lùng nhất trong truyện là Đào Văn Lật.
Song song và ẩn hiện sau những cái chết ấy là hận thù. Trong Trăng Huyết, người ta không hận thù một người hay một dòng họ, mà hận thù từng nhóm người, từng giai cấp, từng tập thể, hay cả dân tộc, nên hận thù mang tính hàng hàng lớp lớp và không ai thấy mình đủ thời gian cũng như sức lực để giết hay để trả hận. Máu lại đòi thêm máu và máu tạo thêm máu. Chính vì thế mà trong truyện, có khi người ta gào thét trước khi giết, và đâm chém thêm, nã súng thêm vào thây ma sau khi giết. Ít khi có tiểu thuyết nào mà con người đối xử với nhau tàn bạo đến thế, và cũng ít tiểu thuyết nào mà tác giả lại tàn nhẫn với các nhân vật của mình đến thế.
Có thể là tác giả muốn cực tả sự tàn bạo và phi nhân của chiến tranh nói chung và cuộc chiến nhiều mặt ở Việt Nam nói riêng. Nếu thế, thì sự bàng hoàng của người đọc khi gấp sách lại, và sự rờn rợn suốt thời gian đọc truyện, khi thấy những dòng chữ đầy máu đổ thịt rơi hóa ra lại là sự thành công của tác giả. Dân tộc ta quả nhiên đã mang những vết thương khủng khiếp trong một cuộc chiến quá dài, quá rộng và quá tàn nhẫn.
Virginia, Hoa Kỳ,
Mùa thu 2004
NỘI DUNG
Lời nói đầu của Anthony Grey
Lời Giới Thiệu của Nguyễn Minh Diễm
Nội Dung
Bài Thơ Cảm Đề của Nguyễn Ước
TẬP MỘT
Phần I. Đời Thuộc Địa Là Thế !
1925
Phần II. Hận Thù Của Triệu Cu-li
1929-1930
TẬP HAI
Phần III. Sông Hương
1936
Phần IV. Chiến Tranh Và Nạn Đói
1941-1945
TẬP BA
Phần V. Điện Biên Phủ
1954
Phần VI. Thái Bình Kiểu Mỹ
1963
TẬP BỐN
Phần VII. Chúng Tôi Tranh Đấu Đã Ngàn Năm
1968-1969
Phần VIII. Chiến Thắng Và Chiến Bại
1972-1975
Tái Bút
Thay lời bạt của Hoàng Khởi Phong
Phụ lục:
Tiểu Sử Tác Giả
Phỏng vấn của Đài Á châu Tự do
Nguyên văn Lời Mở đầu của A. Grey
Cảm Đề
TRĂNG HUYẾT
Năm mươi năm cát bụi lầm,
Nghe bần bật máu tiếng thầm lời thiêng.
Bầy chim Lạc thuở trời nghiêng,
Quạt đôi cánh giữa oan khiên chập chờn.
Bay qua bão lửa mưa nguồn,
Đau cơn mộng dữ thiên đường âm u.
Thì thôi rũ áo hận thù,
Hương lòng bát ngát, phù du sắc đời.
Ai về gối đất làm ngôi,
Ta đêm chấm mực khóc người truân chuyên.
N.Ư
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:49 AM
Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
Tập I - Phần I - 1 -
Tháng 10 năm 1856, tàu chiến Pháp hạ thành Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lăng nước Việt Nam nhằm thiết lập các cơ sở chính trị và thương mại cho nước Pháp, để tối hậu, biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Tháng 2 năm 1859, quân Pháp chiếm thành Gia Định rồi dần dần xua quân đánh loang khắp lục tỉnh. Mười bốn năm sau, Pháp hạ thành Hà Nội lần thứ nhất. Tháng 3 năm 1874, đại diện vua Tự Đức và nước Pháp ký Hòa ước Giáp Tuất nhường đứt sáu tỉnh Nam Kỳ cho Pháp. Tám năm sau, Pháp đưa quân ra Bắc, hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Tháng 6 năm 1884, hòa ước Patenôtre ký kết giữa các đại diện Pháp và triều đình Huế công nhận nước Việt Nam bị chia hẳn làm ba kỳ. Hiệp ước ấy đánh dấu nền thống nhất đất nước mà dân Việt từng xây dựng bằng biết bao nhiêu xương rơi máu đổ suốt mấy ngàn năm lịch sử, nay lâm vào cảnh tam phân vì chính sách thâm hiểm “chia để trị” của người Pháp; nó đồng thời xác định sự chiến thắng trọn vẹn của đế quốc Pháp và sự suy tàn không cứu vãn nổi của phong kiến Việt Nam.
Như thế, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, từ trước năm 1925, đất nước hiện nay có tên là Việt Nam đã bị chia làm ba phần. Miền phía nam gồm Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long làm thành xứ Nam Kỳ, trên thực tế là thuộc địa kể từ năm 1862; miền trung ở giữa với đế đô Huế là xứ Trung Kỳ Bảo Hộ; và miền phía bắc với kinh kỳ Hà Nội cũng là một xứ bảo hộ riêng biệt, được gọi là Bắc Kỳ. Về mặt lý thuyết, hoàng đế An Nam có toàn quyền cai trị phần đất bảo hộ, nhưng sau biến cố Kinh thành Thất thủ 1885 với việc vua Hàm Nghi xuất cung, truyền hịch kêu gọi toàn quốc Cần Vương, người Pháp truy bắt được vị vua 16 tuổi này, đem đày ở Algeria. Sau khi phong trào Văn Thân tiếp nối rồi bị dẹp tan, người Pháp bắt đầu thao túng chính sự của Nam Triều.
Năm 1907, người Pháp dựng cớ vua Thành Thái bị bệnh tâm thần, bắt đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Tới năm 1914, nổ ra Thế Chiến Thứ Nhất ở châu Âu, họ đưa vị cựu hoàng đầy khí phách ấy đi đày ở đảo Réunion tại Phi Châu thuộc Pháp để ngừa biến loạn. Bảy năm trước đó, người Pháp đặt lên ngôi con của Thành Thái là Duy Tân, lúc ấy mới tám tuổi. Tới năm 1916, vị vua trẻ anh tuấn này dũng cảm “rửa vết nhơ cho nước” bằng cách đứng đầu một phong trào khởi nghĩa đánh Pháp từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Sự việc vỡ lỡ, nhiều sĩ phu và nghĩa dân trong Việt Nam Phục Quốc Hội bị bắt rồi bị cấm cố khổ sai hoặc xử tử. Nhà vua bị Pháp đem đi đày chung một đảo với phụ hoàng.
Người Pháp đưa lên ngôi người con trai duy nhất còn sống của vua Đồng Khánh là Bửu Đảo, một hoàng tử thường đau yếu và miệt mài trên chiếu bạc, rể của đại thần Trương Như Cương là kẻ lúc bấy giờ có quan hệ thân thiết với Pháp và quyền uy bậc nhất Nam Triều mà quan lại các cấp hầu hết đều xu phụ người Pháp. Trên lý thuyết, vua Khải Định, hoàng đế An Nam, cai trị hai miền gồm Trung Kỳ Huế và Bắc Kỳ Hà Nội với sự giúp đỡ và bảo hộ của Pháp còn Nam Kỳ thì chịu sự cai trị trực tiếp của Paris — nhưng trong thực tế cả ba miền đều là thuộc địa bị đô hộ.
Dân Việt Nam hầu hết thuần chủng tuy có một số bộ lạc sống nơi núi rừng hẻo lánh thuộc hệ Môn-Khmer và Thái, Tày, Nùng, v.v. làm thành khoảng 57 sắc dân. Ngày nay người ta gọi dân nước này là người Việt Nam nhưng vào thời đó (1925) thế giới bên ngoài chỉ biết rằng họ là người An Nam. Về cơ bản, họ thuộc nòi Giao Chỉ, có nguồn gốc chủng tộc bản địa, giống Mã Lai đa đảo Mê-La-Nê-Diên sống ở Đông Nam Á, trong đó có đồng bằng Bắc bộ, và hợp chủng với tộc Bách Việt mà vào thời tiền sử đã từ phía nam sông Dương Tử lan xuống vô số hải đảo Thái Bình Dương. Định cư tại dải đất ven biển phía đông bán đảo Hoa Ấn, dân tộc Giao Chỉ này lập quốc với tên Văn Lang, sau đó, từng đặt tên xứ sở mình là Nam Việt: Đất của dân Việt phương Nam. Họ còn gọi xứ sở mình là đất giao lưu của hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Người Trung Hoa xâm lăng họ, chiếm cứ xứ sở họ suốt mười một thế kỷ, đồng thời đổi tên Nam Việt thành An Nam: Phương Nam ổn định và từ đó, gọi họ là người An Nam.
Trong suốt thời gian dài dằng dặc ấy, họ hấp thu hệ thống quân chủ và triết lý Khổng Mạnh của người Trung Hoa nhưng từ khi giải phóng đất nước nhân lúc sụp đổ của nhà Đường, họ vươn lên thành một quốc gia độc lập. Có thời xưng là Đại Việt: xứ sở của Dân Việt Vĩ Đại; cũng có thời xưng là Đại Nam: Phương Nam Vĩ Đại, họ đẩy lùi cuộc xâm lăng của đám người Mông Cổ cũng như họ chiến đấu và chiến thắng những nỗ lực xâm lăng của các hoàng đế Trung Hoa thuộc các triều đại Tống, Minh rồi Mãn Thanh. Từ đồng bằng Bắc bộ, họ bành trướng lãnh thổ xuống phương nam. Dần dần họ xâm chiếm đất đai của vương quốc Champa vào tới Bình Thuận và lấn luôn phần Khmer-krom (Thủy Chân Lạp) của người Khmer từ Bình Tuy tới Châu Đốc Hà Tiên vào cuối thế kỷ 17. Họ còn khiến vương quốc Lào phải thần phục và triều cống.
Thế nhưng tới cuối thế kỷ mười chín họ không đủ sức chống cự các đạo binh châu Âu. Vào thời đó, sau hai thế kỷ xâm nhập ngày càng sâu của các nhà truyền giáo và các nhà buôn phương Tây, tới lượt người Pháp quyết định dùng sức mạnh vũ khí để thiết lập nền đô hộ trên khắp lãnh thổ An Nam với hai vương quốc cách biệt là Lào và Cambodia, cộng thêm nhượng địa Quảng Châu Loan ở cực nam Trung Hoa, lập thành Liên bang Đông Pháp (Đông Dương thuộc Pháp).
Ngay từ năm 1886, Paul Bert, Thống sứ Bắc Kỳ rồi Khâm sứ Trung kỳ đã nói: “Khi một dân tộc, vì một lý do nào đó mà đặt chân lên lãnh thổ của một dân tộc khác, thì chỉ có ba cách đối xử, đó là: tiêu diệt dân tộc bại trận, nô dịch họ một cách nhục nhã hoặc gắn bó họ vào chung số phận của dân tộc mình.” Chính quyền thực dân Pháp chưa bao giờ chọn cách thứ ba.
Khoảng mười sáu ngàn người Pháp thống trị mười lăm triệu người An Nam với một chế độ cai trị khắc nghiệt, không chút khoan nhượng. Họ bổ nhiệm các viên chức Pháp và một số người bản địa thân Pháp nắm quyền hành cho tới tận cấp chính quyền thấp nhất còn người An Nam đã không có quyền hành lại còn bị sỉ nhục ngay trên quê hương mình. Gạo, than đá và cao su bị đem bán ra nước ngoài vì lợi nhuận độc quyền của những người Pháp có cổ phần trong các công ty châu Âu, còn cu-li người An Nam bị hành hạ trong hầm mỏ, trên công trường cao su với đồng lương không đáng kể. Dân quê làm ruộng cũng lâm vào hoàn cảnh khốn khổ như thế. Đất của họ thường bị kiếm cớ cướp đoạt rồi đem sáp nhập để tăng thêm đất sở hữu của các Tây thuộc địa và của một số ít ỏi người An Nam đang hợp tác với Pháp.
Trong khi bóc lột các xứ sở mình chiếm cứ, người Pháp lại không ngớt rêu rao rằng họ tới Đông Dương với “sứ mạng khai hóa” để giúp quốc gia lạc hậu này tiến vào ánh sáng văn minh của thế kỷ hai mươi. Ngay từ đầu, các nho sĩ và quan chức hàng đầu người An Nam như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Âu Dương Lân, v.v... đã nhận ra sự đạo đức giả đó của người Pháp. Họ không bao giờ chịu thật lòng hợp tác với chủ nhân ông thực dân và họ coi khinh những đồng bào nào hợp tác toàn tâm toàn ý với Pháp. Một số ra sức tổ chức các nhóm yêu nước và kháng chiến như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, v.v... và sau đó, các phong trào Cần Vương, Văn Thân... nhưng không mấy thành công.
Cũng như các nước thực dân thời đó, người Pháp tin rằng đám thần dân thuộc địa “da màu” thì rất thấp kém so với các chủng tộc da trắng châu Âu. Và vào năm 1925, niềm tin ấy tác động hết sức mạnh mẽ lên mọi lãnh vực trong đời sống hằng ngày — khắp các mặt chính trị, kinh tế, vắn hóa, xã hội… và thậm chí tình dục.
- 1 -
Bọt trắng phun ngược lên mặt nước rồi ngoằn ngoèo chạy theo các bánh lái bằng thép của chiếc Avignon, con tàu Pháp trọng tải năm ngàn tấn, khi họ ra khỏi vùng Biển Đông nước ấm xanh màu nhiệt đới. Con tàu rời Hồng Kông hai ngày trước đây, nay đang hướng mũi về vùng xích đạo phương nam dưới ánh mặt trời chói chang ban trưa. Giữa bóng tối nóng nung người trong các hầm tàu không hàng hóa ngay bên dưới sàn boong, ba trăm cu-li người Hoa cùng với gia đình của họ im lặng chen chúc nhau, ngỏng cổ rướn tới các luồng không khí thoáng đãng đang chờn vờn bên trên những nắp vỉ sắt nóng bỏng dùng để cách ly họ và nhốt thật kỹ.
Nơi khu vực bên trên boong sát bên ngoài nửa tá buồng ngủ hạng nhất, các tấm bạt sọc trắng xen lẫn sọc xanh lá cây nhẹ nhàng vờn cánh trong gió, rung êm đềm theo chuyển động của thân tàu. Dưới bóng mát của vải bạt, thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman ung dung ngửa người trên lưng ghế xích đu bằng vải thô, khoan khoái duỗi thẳng hai chân ra đằng trước. Cao, mặt hồng hào và có khuynh hướng phát phì trong độ tuổi vừa quá bốn mươi, người Nathaniel toát ra vẻ tự mãn của một kẻ sở đắc được sự hâm mộ của quần chúng tới một mức nào đó. Đầu xù và mái tóc rậm từ đường ngôi giữa trán rẽ ra hai bên thành hai mé đều nhau. Môi trên của ông phủ một bộ ria rậm hợp thời thượng.
Nathaniel đã cởi áo khoác bằng vải lanh nhưng phong cách chững chạc được nuôi dạy từ thuở bé của một người thượng lưu Virginia khiến ông vẫn mang trên mình chiếc áo vét-tông may cắt rất vừa vặn và chiếc cà-vạt lụa màu nâu được ghim vào áo sơ-mi bằng cây kim nạm kim cương. Cũng thế, lòng kiêu hãnh và thích kiểu cách của người Mỹ miền nam khiến thượng nghị sĩ phải vội vàng nhỏm dậy khi có một sĩ quan cấp úy, mặc đồng phục trắng, xuất hiện sát bên ông. Trên tay anh ta là khay nước giải khát ướp lạnh được bưng ra cho ông, vợ và hai con trai. Nathaniel nói chậm rãi, cố ý làm cho nụ cười ân cần chiếu cố tỏa khắp khuôn mặt mình:
- Thưa anh, săn sóc chúng tôi như thế này anh thật là người cực kỳ tinh tế. Nhất là trong khi anh rất bận rộn với con tàu nhỏ nhắn và ngăn nắp này.
Người thanh niên Pháp nghiêng đầu tỏ vẻ tôn kính rồi thận trọng nói bằng thứ tiếng Anh của người ít khi dùng tới:
- Thưa thượng nghị sĩ, xin ông chớ nói như thế. Tôi chỉ là người vâng lệnh thuyền trưởng mang tới quí vị nước giải khát cùng lời vấn an của ông ấy. Trước đây, chúng tôi chưa bao giờ có hân hạnh được chở một đại biểu quan trọng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tới Sài Gòn như lần này.
- Xin anh vui lòng chuyển lời cám ơn của tôi tới thuyền trưởng về sự đánh giá vô cùng tử tế của ông ấy. Chắc chắn lòng hiếu khách nổi tiếng của người Pháp sẽ làm cho thời gian chúng tôi ở lại tại thuộc địa của quí quốc thành một kỷ niệm không bao giờ phai nhạt.
Viên sĩ quan đẹp trai với vẻ mặt trẻ thơ ấy thêm lần nữa nghiêng đầu. Rồi xoay lưng lại với thượng nghị sĩ, anh hướng khay nước về phía Flavia, vợ ông, một phụ nữ trong độ tuổi chưa tới bốn mươi, đẹp tuyệt vời và rất quyến rũ. Mái tóc đen tuyền ôm gọn khuôn mặt trái xoan màu trắng phơn phớt xanh cùng bộ ngực đầy đặn và thanh tú, tỏ cho thấy phần nào dòng máu Louisiana lai Pháp đang chảy trong huyết quản bà.
Viên sĩ quan mỉm cười nhìn thẳng vào mắt Flavia khi bà đưa bàn tay đeo găng lên nhấc ly nước chanh tươi có đá lạnh. Flavia cũng mỉm cười cám ơn, lâu hơn mức cần thiết một chút, rồi nhỏ nhẹ cất tiếng:
- Merci beaucoup, monsieur. Vous êtes trop gentil. Cám ơn ông rất nhiều. Ông dễ mến quá.
Trước khi quay sang hai con trai của Flavia, người thanh niên Pháp để ánh mắt thoáng lướt theo đường nét trên bộ ngực bà đang căng phồng dưới lớp áo đầm bằng lụa mỏng mới may cắt ở Đại lộ Thứ Năm; rồi anh lại mỉm cười ý nhị với bà. Sự phô bày lộ liễu niềm say mê và thú vị đó khiến Flavia cảm thấy mặt mình nóng bừng.
Bên kia bàn, Joseph, cậu con trai thứ, thấy má mẹ ửng hồng. Flavia ngước mắt, nhận ra cậu đang đăm đăm nhìn thấu tâm trạng sâu kín của mẹ. Để giấu kín vẻ bối rối, bà lóng ngóng cho tay vào túi xách tìm chiếc hộp nhỏ và dẹp làm bằng mai rùa có gắn gương *** bên trong nắp rồi xoay người qua hướng khác, bà điểm điểm phấn lên khuôn mặt mình. Joseph cầm ly nước chanh trên khay của viên sĩ quan nhưng thay vì uống, cậu tiếp tục nhìn về phía mẹ, sẵn sàng nở nụ cười đồng tình. Nhưng trước trạng thái trông ngóng của cậu, Flavia lại đưa mắt ngó chỗ khác, không nhìn con.
Khi người thanh niên Pháp vừa quay đi, Nathaniel Sherman tủm tỉm cười, nghiêng mình đầy tự tin về phía chiếc ghế có cậu con lớn đang ngồi:
- Chuck ạ, bố đang tự hỏi là anh ta sẽ đối đáp ra sao nếu bố bảo anh ta rằng anh ta vừa mời nước một người tới ngày nào đó sẽ trở thành nhân vật quan trọng còn hơn cả thượng nghị sĩ tầm thường này của đảng Dân Chủ tiểu bang Virginia? Giả dụ bố bảo anh ta rằng chiếc Avignon này đang chở người thanh niên có tên Charles Sherman, kẻ mang định mệnh một ngày nào đó sẽ trở thành tổng thống nước Mỹ?
Ông nắn nắn bắp tay Chuck, tên gọi tắt của Charles, rồi liếc cậu con thứ:
- Chắc chắn thế nào anh ta cũng phải chú ý tới nổi giật bắn cả người, đúng không Joey?
Joseph gật đầu, cầm ly nước lên, nốc cạn một hơi rồi trả lời gọn lỏn, không ngước mặt:
- Đúng hết sẩy đó bố.
Cách nhau sáu tuổi, hai anh em đều có mái tóc màu vàng tươi nhưng chỉ Charles Sherman, hai mươi mốt tuổi, giống vị thượng nghị sĩ cha mình một cách rất đặc biệt. Cao như cha, hai vai rộng khoảng khoát, Chuck có vẻ đẹp như tượng tạc, lồ lộ những đường nét của kẻ bẩm sinh là lực sĩ điền kinh, đồng thời cũng toát ra một cá tính mạnh mẽ khác thường. Và như thể bắt chước cha, cậu cũng hãnh diện để một bộ ria mép màu hung.
Đưa ngón tay trỏ với ngón cái lên xoắn xoắn mấy cọng ria, Chuck làm bộ mặt mày nhăn nhó, ngó Joseph với vẻ trêu chọc, để tỏ cho em thấy trong bụng cũng đang khó chịu khi nghe lời tuyên bố đầy tin tưởng và quá đáng của cha về mình. Lập tức Joseph toét miệng cười tội nghiệp cho anh. Rồi cảm thấy ông bố thượng nghị sĩ đang hào hứng với đề tài quen thuộc đó, cậu cầm lên cuốn sử ký Đông Dương thuộc Pháp đã mở và đặt sẵn trên bàn trước mặt, thả ngửa người ra lưng ghế.
Vóc người nhỏ hơn anh, ở tuổi mười lăm, bộ mặt của Joseph mang nét thơ dại và còn nhiều biến đổi của một thiếu niên đang lớn nhưng đã để lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi và sâu sắc hơn Chuck. Nụ cười của cậu có dấu vết đa cảm như thừa hưởng tính khí của mẹ. Khi cha bắt đầu lên tiếng nói nữa, đôi lông mày mơn mỡn trẻ trung của Joseph nhíu lại. Dù đang cố tập trung trí óc vào việc đọc sách nhưng từ đằng sau cuốn sách, cậu vẫn nghe không sót tiếng nào trong lời lẽ của bố:
- Chuck ạ, bố biết con cảm thấy ngượng nghịu khi bố đề cập tới con theo cách đó nhưng bố làm vậy cũng chỉ với động cơ tốt.
Thận trọng và trang trọng châm điếu xì-gà Havana, thượng nghị sĩ nói tiếp:
- Chẳng bao giờ là quá sớm khi gieo rắc những ý tưởng vĩ đại vào một đầu óc non trẻ. Bố tin rằng một khi người đàn ông đã lập quyết định thì không việc nào hắn không làm được. Con nên nhớ rằng: hễ nếu con bắt tay vào việc sớm hơn một chút thì không cái gì trên quả đất này có thể cản trở nổi một quyết tâm thật sự. Bộ không phải cộng đồng tiểu bang Virginia của chúng ta nổi tiếng là nơi sản sinh tổng thống Mỹ sao? Washington, Jefferson và sáu người Virginia khác từng lãnh đạo đất nước của chúng ta. Vậy tới ba mươi lăm năm nữa — hãy cứ nói là khoảng năm một ngàn chín trăm sáu mươi — tại sao lại không có một vị tổng thống tên là Charles Sherman ngồi trong Toà Bạch Ốc? Bố đã nói với con trước đây rằng con hãy phóng tầm mắt của mình lên thật cao.
Nathaniel ngừng lại, chỉ điếu xì gà vào cậu con lớn và thân mật khích lệ:
- Nếu con bắt tay hành động thì cái không thể làm được sẽ bắt đầu trở thành cái có vẻ làm được.
Chuck Sherman ngọ nguậy trên ghế, nhăn mặt hóm hỉnh nhìn mẹ:
- Ôi, cũng lại cái chuyện đó nữa! Mẹ ơi, rồi mẹ có thỉnh thoảng ghé lại Tòa Bạch Ốc thăm con để con chẳng cảm thấy mình quá cô độc ở chỗ đó không?
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:51 AM
Trước khi vợ kịp trả lời, thượng nghị sĩ cắt ngang với giọng có vẻ quở trách:
- Bố tin chắc, Chuck ạ, rằng không có gì làm mẹ con hạnh phúc hơn là được thấy con mang lại sự trọng vọng cho bản thân con và cho gia đình mình. Không kém gì bố, mẹ con cũng muốn con thành công.
Flavia Sherman lập tức mỉm cười đồng tình với Chuck. Rồi với tiếng thở dài không màng che đậy cơn bực dọc, bà quay sang chồng:
- Nathaniel này, có phải để yên cho cả nhà thoải mái trong vài tuần lễ để tận hưởng chuyến đi này là tốt hơn không? Liệu chúng ta không thể, chỉ lần này thôi, để Washington và chính trị Virginia ở lại bên Mỹ sao?
Với cử chỉ độ lượng, thượng nghị sĩ cười cười, ve vẩy điếu xì-gà trước mặt mình và trả lời:
- Mình ạ, dĩ nhiên anh muốn cả nhà mình vui vẻ thưởng thức chuyến đi hiếm có này, nhất là em. Trưa nay, anh thấy em có vẻ cực kỳ thoải mái trong chiếc áo đầm em đang mặc. Anh nghĩ chuyến đi này tự nó là một liều thuốc bổ cho em. Thật may mắn cho mình, phải không các con, là cửa tiệm Saks Fifth Avenue sang trọng đã khai trương đúng một ngày trước hôm chúng ta đi xa?
Nathaniel tít mắt nháy về phía hai con rồi đưa tay vỗ vỗ bàn tay của vợ đang đặt trên thành ghế, ông xuống giọng:
- Anh nghe người ta đồn lòng vòng ở Manhattan rằng sau hôm em đi mua sắm ở khu vực đó, các cửa tiệm phải đóng cửa vì hết sạch y phục thời trang Paris, có phải vậy không?
Flavia cố nhoẻn miệng cười nhưng trong thâm tâm bà muốn rụt tay lại khi bị chồng chạm vào. Suốt ba ngày vượt biển vừa qua, lần đầu tiên sau nhiều năm trời bà lại được giao tiếp với lối sống kiểu Pháp và trong lòng bà những xúc cảm bị quên lãng từ lâu nay xôn xao trở lại.
Lời thăm hỏi đầy phong nhã của thuyền trưởng và đặc biệt, ánh mắt sáng lên khi nhìn bà của các sĩ quan trên tàu gợi cho Flavia nhớ rằng nhan sắc thời trẻ của bà, một nhan sắc từng được vô số người ngưỡng mộ, nay chưa phôi pha. Lúc này, trong bầu khí nóng bức và sôi nổi của vùng nhiệt đới, dường như đã bốc thành hơi và tan biến khỏi ký ức của Flavia mọi dấu vết, mọi hình ảnh những năm dài vừa qua lịm chết với việc chăm lo nội trợ cùng săn sóc gia đình giữa lòng xã hội gò bó Tidewater xứ Virginia.
Ngay từ những ngày bắt đầu cuộc sống vợ chồng, Flavia đã cảm thấy cô đơn trong ngôi nhà nơi đồn điền Queen Anne nhìn xuống dòng sông James dù chung quanh bà lúc nào cũng có mặt một “đạo quân” nhỏ gồm những người da đen giúp việc. Và cứ thế, nhiều năm trời trôi qua trước khi Flavia hoàn toàn hiểu ra rằng chồng mình đã dùng tình trạng thường xuyên vắng nhà — ban đầu vì công việc của đồn điền, rồi sau đó tới ở hẳn tại Thủ đô Washington — để che đậy việc ông gần như chẳng quan tâm chút nào tới con người của vợ. Sau cùng, Flavia thu mình vào một cuộc sống tẻ nhạt, thiếu đam mê, còn chồng bà che phủ tình trạng ông không để ý tới cảm xúc của vợ bằng một chiếc mặt nạ lịch sự nhã nhặn trước mặt mọi người. Ngoài tính cách của một người mẹ, vai trò độc nhất Flavia đóng là tiếp khách như một nữ chủ nhân nhằm trang trí cho những buổi họp mặt chính trị của chồng.
Cứ thế Flavia chịu đã thành quen nếp sống hôn nhân bề ngoài mãn nguyện nhưng bên trong đầy dẫy dối trá tới độ có lẽ chính bà cũng sắp sửa tin rằng đó chính là hạnh phúc thật. Nhưng lúc này, bản tính một thời đam mê đang thêm lần nữa thức giấc, Flavia bắt đầu cảm thấy mình sống động sôi nổi trở lại. Những ngón tay của chồng đang chạm vào bà một cách tẻ nhạt và hời hợt bỗng có vẻ ghê ghê hơn bao giờ hết. Vội vàng rút tay mình về và cầm ly nước chanh lên để che giấu lý do thật sự khiến mình cắt ngang sự đụng chạm đó, bà nói thật bình thản, không ngước mắt nhìn chồng:
- Nathaniel ạ, em sẽ sung sướng hơn nếu anh đừng cứ vài phút lại làm Chuck lo nghĩ tới tương lai của nó. Em chắc rằng nó đang rất háo hức chuyện đi săn. Tại sao mình không để yên cho con tự thoải mái với chính nó.
Nathaniel nhấc điếu xì-gà khỏi miệng rồi thêm lần nữa vỗ vỗ bàn tay vợ và nói với vẻ bao dung:
-Mình ạ, về mặt đó chắc chắn em có lý. Dĩ nhiên chúng ta dự tính tận hưởng thú đi săn và sẽ tự tay dồn đầy túi săn của mình một số dã thú quí và hiếm của xứ Nam Kỳ. Nhưng em nên nhớ rằng chúng ta đang du hành tới một góc của địa cầu, nơi ít có người biết rõ nó. Cuộc sống ở một thuộc địa của Pháp tại Á Đông khác hẳn mọi thứ chúng ta từng thấy nơi quê nhà. Dù ta đi bất cứ chỗ nào, mỗi chuyến đi cũng là một dịp học hỏi mới — đó là điều cha anh đã dạy cho anh! Và dĩ nhiên cho cả Chuck lẫn Joseph. Anh chỉ muốn giúp các con học cách nhìn mọi sự, thế thôi.
Ông ngừng nói rồi cười với Chuck:
- Dù là dân đại học Harvard đi nữa, con vẫn phải học hỏi từ chính cuộc sống vô số điều lạ lùng. Con không thể nào có được hết thảy khôn ngoan của thế gian qua thư viện, ngay cả khi con là một học giả giỏi tới cỡ nào đi nữa...
Đột nhiên tiếng động của cuốn sách đóng ập lại làm thượng nghị sĩ trừng mắt nhưng ông vẫn không ngưng cuộc độc thoại của mình. Trong một thoáng, Nathaniel đưa mắt chăm bẳm nhìn theo cậu con thứ khi cậu bỏ đi, bước thơ thẩn dọc theo boong tàu. Rồi quay qua cậu con lớn, ông nói tiếp:
- Chuck ạ, thực tế là nếu chỉ nhìn những gì đang xảy ra chung quanh mình thôi thì không đủ. Dù ở Đông Dương hay ở Washington, con vẫn phải học cách cắt nghĩa chính xác các biến cố...
Joseph tiếp tục bước cho tới khi không còn nghe giọng nói lề mề của cha. Cậu dừng chân, tì người vào lan can mé đầu cầu thang, đưa mắt nhìn trống rỗng vào boong tàu phía dưới, và cảm thấy giận mình đã bỏ chỗ ngồi mà đi. Cậu rất muốn nghe những gì cha định nói nhưng giọng điệu đã quá quen thuộc của ông khi tán dương anh Chuck vẫn khiến cậu động lòng như thường lệ. Đây không phải lần đầu tiên Joseph tự hỏi tại sao nó lại làm mình mũi lòng đến thế trong khi chính cậu cũng thương mến và ngưỡng mộ Chuck. Tuy vậy, nỗi thắc mắc ấy tự nó không gợi lên được câu trả lời nào. Sau một hai phút, Joseph nhận ra rằng trong khi tâm trí lùng bùng với những ý nghĩ ấy, cậu cũng đồng thời nhìn xuống mé dưới các vĩ sắt cách ly, nơi nhốt những gia đình cu-li người Hoa.
Hình như phải mất một lúc họ mới từ từ hiện lên rõ nét. Một khối những bộ mặt vàng vọt lúc nhúc bên nhau, câm lặng, lấp lánh mồ hôi như đang tắm. Những lằn con mắt đen nhánh đăm đăm ngó Joseph không chút dao động nhưng chỉ biểu lộ một sự trống rỗng như nhau. Cậu bàng hoàng nhận ra rằng khi nhìn đám người ấy cậu bỗng nhớ lại lũ bê non từng có lần trông thấy nơi đường rầy xe lửa tránh nhau ở quê nhà, tại Richmond, Virginia. Những con bê ấy không biết mình bị dồn lên xe tải để chở tới làm nguyên liệu cho lò sát sinh. Trong lúc tự hỏi không biết những người nô lệ từng được tàu thủy chở tới Hoa Kỳ có giống thế này không, Joseph cảm giác bàn tay của mẹ chạm dịu dàng vào vai mình. Cậu quay lại thấy mẹ đang nở một nụ cười âu yếm.
Flavia dịu dàng cất tiếng:
- Joseph ạ, đừng chạnh lòng về việc ấy. Con đã biết bố thỉnh thoảng lại nổi cơn cao hứng về Chuck. Còn mẹ, mẹ cũng kỳ vọng nơi con rất nhiều điều lớn lao.
Lòng dịu lại, Joseph gật đầu. An tâm mỉm cười với mẹ vì thấy hai mẹ con vẫn hợp ý nhau, cậu vội vàng đáp:
- Không việc gì đâu mẹ. Mẹ không cần phải lo lắng cho con.
Lúc ấy thuyền trưởng của con tàu Pháp Avignon, người lực lưỡng với bộ râu cằm màu đen hình đuôi én, xuất hiện kế bên hai mẹ con. Cầm trong tay chiếc mũ cối làm bằng ruột bần, ông vừa nói vừa cười:
- Monsieur Joseph ạ, cậu phải hết sức cẩn thận mới được; chớ bao giờ phơi mình ra quá lâu dưới ánh mặt trời nhiệt đới.
Chưa dứt nụ cười ông đã lẹ tay ấn mũ lên đầu cậu bé Mỹ và liếc thật lẹ Flavia Sherman lúc này đang đội chiếc mũ rộng vành bọc nỉ trắng có mấy tua màu sặc sỡ:
- Chiếc mũ này của cậu tuy không xinh đẹp bằng của mẹ cậu nhưng cũng đủ cứu cho cậu khỏi bị say nắng.
Vì thuyền trưởng nói bằng tiếng Pháp nên Joseph phải lúng búng cám ơn ông bằng tiếng Pháp, rồi cậu đưa tay chỉ xuống sàn boong:
- Nhưng thưa ông, còn đối với những người đang ở dưới kia thì sao? Chắc là họ cảm thấy nóng thê thảm hơn bất cứ người nào trong chúng ta — mà dưới đó còn có cả đàn bà và trẻ em nữa.
- Cậu Joey trẻ tuổi con ạ, họ có thể là những kẻ gian đấy. Đó là lý do khiến người ta buộc lòng phải khoá chặt họ lại, nhốt họ thật kỹ.
Viên thuyền trưởng Pháp xoay nghiêng nửa người về phía vừa phát ra tiếng nói và nhận ra Nathaniel với Chuck đang đi tới đằng sau. Ông gật đầu đồng ý, chuyển qua nói bằng tiếng Anh:
- Thưa thượng nghị sĩ, ông thật chí lý. Trên tàu này hiện chỉ có một nhúm chúng ta trong khi đó có tới ba trăm tên người Tàu. Hầu hết bọn chúng đều là dân cu-li thất học từ Quảng Đông di dân tới Nam Kỳ, và tụi cướp biển có thể trà trộn vào trong bọn chúng. Dọc bờ biển đông này đầy dẫy hải tặc. Chỉ mới tuần trước đây, trên một chiếc tàu Anh, có một băng cướp biển giả làm hành khách đi vé hạng chót. Tới nửa đêm, bọn chúng tấn công đài chỉ huy. Tới khi thủy thủ đặt được chướng ngại vật để phòng thủ, chúng nổi lửa đốt boong tàu.
Joseph kinh hãi tròn xoe hai con mắt thơ ngây:
- Rồi sao nữa? Tất cả thủy thủ đều bị thiêu sống ư?
Thuyền trưởng mỉm cười trước câu hỏi nôn nóng và tử tế của cậu bé:
- May mắn là không. Ông chủ chiếc tàu Anh quay tàu ngược lại hướng gió khiến gió thổi tạt lửa về phía tụi cướp biển. Bọn chúng chỉ còn có cách nhảy xuống biển, không sót một tên. Nhiều đứa bị chết đuối.
- Goào, mánh lới kiểu đó thiệt là thông minh!
Joseph thở phào. Mặt cậu rạng lên sôi nổi khi nghĩ tới cảnh tượng ấy, rồi âm u trở lại. Cậu hỏi tiếp:
- Nhưng chẳng lẽ tất cả những người Tàu dưới đó đều là bọn cướp biển, đúng không? Có phải đang có chút gì đó không công bằng đối với họ?
Thuyền trưởng trả lời nhã nhặn:
- Cậu nhớ cho, chúng tôi buộc lòng phải làm như thế chỉ vì muốn chuyến đi được an toàn. Chẳng còn biện pháp nào khác. Tại các xứ thuộc địa, có những sự việc nhất định phải được thực hiện một cách khác với thông thường.
Rồi ông nhún vai, hơi có vẻ gô-loa, theo kiểu ngụ ý mình không thể lo liệu nổi. Và mỉm cười ông nói tiếp:
- C’est la vie coloniale: Đời thuộc địa là thế, Monsieur Joseph ạ! Chẳng bao lâu rồi cậu cũng sẽ quen dần với nó.
Trong một chốc nét mặt Joseph vẫn còn vẻ ái ngại nhưng rồi lại tươi rói khi đưa tay chỉ về hướng tây, qua vai thuyền trưởng. Cậu la lên háo hức:
- Có phải đất liền ở chỗ đằng xa kia không?
Lập tức thuyền trưởng người Pháp đưa ống nhòm lên quan sát:
- Vâng, Monsieur Joseph, cậu nói đúng. Đó là vùng duyên hải của một thuộc địa Pháp xinh đẹp nhất, trù phú nhất thế giới.
Ông xem đồng hồ và trao ống nhòm cho cậu bé Mỹ:
- Cậu có muốn nhìn không? Có lẽ chúng ta sẽ cập bến Sài Gòn vào một lúc nào đó sau bữa ăn trưa mai.
Bằng đôi mắt trần, Joseph chỉ thấy thấp thoáng dấu vết bờ biển lờ mờ, khi ẩn khi hiện. Nhưng qua ống nhòm cậu có thể thấy rõ hơn vài mỏm cuối của dải Trường Sơn ngàn dặm. Theo bản đồ, nó trông như một cành cây sần sùi nối liền vùng đồng bằng sông Cửu Long dồi dào lúa gạo phương nam và Sài Gòn với châu thổ phì nhiêu sông Hồng bao quanh Hà Nội ở phương bắc.
Qua cuốn sách vừa gấp lại trước đó Joseph biết rằng có những vùng rộng mênh mông toàn rừng nhiệt đới nguyên sinh bao phủ các khu vực núi non và các vùng đất thấp bao la phía dưới. Trong cuốn sách đó còn có những bức ảnh màu nâu sẩm chụp hình dân các bộ lạc bán khai, những kẻ ngày nay vẫn săn bắn bằng mũi tên đầu gắn đá nhọn và lao mác tẩm độc trong những khu rừng xanh mướt không kém gì nhau. Tại vùng rừng thẳm bạt ngàn ấy, dã thú sống thành từng đàn và nhung nhúc voi, cọp, trâu rừng, gấu đen cùng vô số loài thú quí hiếm khác chưa bị quấy nhiểu bởi bước chân của văn minh. Suốt chuyến vượt Thái Bình Dương, Joseph đã say sưa đọc ngấu nghiến nội dung cuốn sách đó và khi cả nhà vừa rời Hồng Kông cậu lại đọc thêm lần nữa từ trang đầu.
Vừa nhìn qua ống nhòm, Joseph chợt có cảm giác khắp mình mẩy rúng động như có một luồng háo hức rần rật chạy qua trước viễn ảnh sẽ được thấy những hình ảnh in trong sách hiện rõ thật sự giữa cuộc đời. Trong một hồi lâu, buông thả óc tưởng tượng, cậu mơ màng rằng mình là một nhà thám hiểm vĩ đại sắp đi vào một vùng đất vô danh và thù nghịch, tại đó tên tuổi của Joseph Sherman sẽ được ghi vào lịch sử mai sau với đầy đủ danh tính. Rồi cậu tự hỏi không biết các nhà thám hiểm vĩ đại có bao giờ cảm thấy giống như mình lúc này không: háo hức, đúng, nhưng còn nữa, có phần nào e sợ!
Đột nhiên nhớ ra rằng Chuck và cha đang đứng ngay sau lưng mình, Joseph cảm thấy thẹn tê người với ý nghĩ đó, tới độ muốn hụt hơi thở. Liệu cha và anh có nhận ra sự háo hức cậu đang cảm thấy trong lòng? Liệu cả hai có đọc thấy vẻ e sợ trên nét mặt của cậu? Điều sau cùng cậu muốn cha và anh vui lòng cứu xét, rằng ở tuổi mười lăm, dù sao đi nữa, cậu vẫn còn non nớt.
Khi quay mình chuyền ống nhòm cho Chuck, Joseph cố nhíu đôi lông mày với hy vọng rằng cử chỉ đó biểu lộ một phong thái kiên quyết, cứng cỏi. Rồi cậu nói với Chuck, cố làm giọng tự nhiên như thể buột miệng:
- Nếu anh hỏi ý kiến em, em sẽ nói như thế này. Rằng em chỉ thấy nó giống với bờ biển Virginia lúc trời sương mù dày đặc.
Nói xong, Joseph làm bộ nhún vai, bắt chước y hệt điệu bộ của viên thuyền trưởng người Pháp.
Để ý tới hai con mắt long lanh, chớp lia lịa của Joseph, Chuck nhe răng cười. Cậu với tay cầm ống nhòm, trìu mến huých cùi chỏ vô cánh tay em. Nhưng Chuck chưa kịp đưa ống nhòm ngang tầm mắt đã dậy lên những tràng gào rú dồn dập từ đám đông người Hoa đang xô đẩy nhau ào tới sát tấm vỉ sắt phía dưới.
Ba cha con nhà Sherman vừa cảnh giác quay người lại, thuyền trưởng đã lật đật tuột từ trên cầu thang xuống, rút khẩu súng lục đeo bên hông áo chẻn bộ đồng phục trắng ra. Ông quì một chân xuống bên tấm vỉ sắt, bắn lên trời ba phát liên tiếp. Tiếng súng làm mấy trăm người Hoa im bặt trong vài giây. Rồi một giọng phụ nữ lẻ loi ré lên than khóc rền rỉ. Và ba cha con thấy một hình hài còm cỏi xác xơ bị đẩy lên mé bên dưới vỉ sắt.
Sau khi trao đổi thì thầm qua vỉ sắt, thuyền trưởng ra lệnh cho hai sĩ quan rút súng ra hờm sẵn và đứng sát hai bên ông trong lúc ông mở khoá, rút then sắt. Khi nắp vỉ sắt bật lên, ông gọi hai ba thủy thủ tới kế bên, ra lệnh cho họ lôi mạnh tử thi lên rồi đặt nằm trên boong. Ông cho phép người đàn bà gầy guộc, quần áo lem luốc trườn lên theo sau thi hài. Vừa ra ngoài, bà ta lập tức quì mọp bên xác chết và bắt đầu cất giọng than khóc kể lể. Để mặc người đàn bà, thuyền trưởng ra lệnh mang tử thi ra đằng sau đuôi tàu. Cuối cùng, người đàn bà cũng đứng lên, vừa khập khểnh bước theo vừa không ngớt sụt sùi.
Flavia xoay lưng lại, dựa mình vào lan can. Người bà run lẩy bẩy, mặt tái mét, hai mắt nhắm nghiền. Lát sau bà mới mở nổi miệng:
- Dễ sợ quá. Chẳng biết rồi có còn ai trong bọn họ sống sót nổi dưới chỗ đó không!
Thượng nghị sĩ trả lời vợ bằng giọng dịu dàng:
- Mình ạ, chớ để cho việc đó làm em mất ngủ. Lũ cu-li Tàu hết thảy đều cộc cằn. Chúng nó sống cuộc đời rất thô lậu. Chúng không khao khát được ung dung cả tâm hồn lẫn thể xác như chúng ta. Đối với bọn chúng, mạng sống còn rẻ hơn bèo.
Nathaniel vắt người qua lan can nhìn xuống boong tàu phía dưới. Toán người của thuyền trưởng đã đi hết và những người Hoa bên dưới vỉ sắt dần dần lặng yên. Ông nói vói ra đằng sau:
- Chuck ạ, có thể nói rằng con vừa tự mắt mình nhìn thấy một sự việc chứng minh rất rõ ràng cái qui tắc trên đó mọi đế quốc trong lịch sử được dựng lên. Julius Ceasar và Alexander Đại Đế hiểu rõ qui tắc đó và Nữ hoàng Victoria của Anh cũng hiểu rõ. Đó là: “quyền lực là lẽ phải.” Ở đây và lúc này, người Pháp sở hữu quyền lực; vì thế người Á Đông trên con tàu này cũng như khắp Đông Dương đều phải làm theo lời họ bảo chúng làm. Đó là cách thức của thế giới này. Người giàu của cải và người nắm quyền lực đều ở vị thế chủ động. Nếu con tập hợp được sức mạnh siêu việt, con có thể áp đặt lối suy nghĩ của mình lên trên kẻ khác dù họ không thích điều con làm hoặc cách con làm điều đó. Nếu con có cơ bắp lực lưỡng hơn và con quyết tâm sử dụng nó, kẻ khác phải đi theo con. Đó là một qui tắc không bao giờ biến cải.
Ngưng một chút, thượng nghị sĩ đưa mắt liếc chung quanh xem có thủy thủ Pháp nào ở trong tầm nghe không. Rồi ông nói tiếp:
- Người Pháp có bàn tay nặng nề. Họ thích dùng súng bắn voi để làm chóng mặt một con bọ chét. Con sẽ thấy điều đó khi chúng ta lên bờ. Người ta nói với bố là họ hành xử ở đây như thể họ kỳ vọng rằng đế quốc Pháp sẽ kéo dài tới vô tận. Tại Mỹ, chúng ta biết ứng xử theo cách khác. Đường lối của Pháp không phải là đường lối của Mỹ. Các con ạ, chúng ta xử sự cách khác — và xử sự tốt hơn.
Nắm khuỷu tay cậu con lớn, thượng nghị sĩ vừa nói vừa ra hiệu cho cậu cùng đi với ông dọc theo boong tàu. Joseph nhìn theo bước chân của cha và anh rồi quay sang nhìn mẹ. Mắt ánh lên vẻ khắc khoải, cậu hỏi, cố giữ cho giọng mình thật thấp để không lọt tới tai cha:
- Mẹ ạ, mẹ có nghĩ rằng những người phía dưới ấy quả thật rất khác với chúng ta?
Lùa sợi tóc đang rủ xuống mắt, Flavia Sherman mỉm cười âu yếm đáp lời con:
- Joseph ạ, đời sống đầy dẫy những câu hỏi không trả lời nổi, như câu con vừa hỏi. Rõ ràng về nhiều mặt, họ rất khác. Nhưng tất cả chúng ta đều được làm nên bằng máu và thịt, phải không?
Nét mặt Joseph vẫn đầy nếp nhăn nghĩ ngợi và Flavia nhận thấy con mình không thoả mãn với câu trả lời ấy. Để hướng con suy nghĩ sang chuyện khác, bà choàng tay lên vai cậu và hai mẹ con cùng nhau rời lan can:
- Lúc này, con đừng bận tâm với chuyện đó nữa. Mình hãy trở lại chỗ cũ, cùng ngồi với nhau trong bóng mát, được không? Rồi con có thể kể cho mẹ nghe thêm đôi ba điều về cuốn sách con đã vùi đầu vào đó suốt tuần lễ vừa qua.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:52 AM
Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 2 -
“Ôi!” Chuck Shermam thở ra, thèm thuồng nhìn chằm chặp bức trường thành làm bằng những tán lá nhiệt đới màu lục, xanh thẩm và dày đặc đang lướt qua mạn tàu, chỉ cách lan can khoảng hơn chục thước:
- Thế này thì rặng núi miền Tây Virginia chỉ còn là một chốn buồn tẻ vô vị, Joey ạ. Em có nghĩ mình sẽ cảm giác như thế nào khi đứng trước mặt một đàn voi hay một con cọp lông vàng sậm ở chốn núi cao rừng thẳm này không?
Joseph trả lời lãng đãng:
- Em nghĩ mình tới đây đâu phải để săn voi bắn cọp.
- Cậu em tốt lành ạ, chúng ta không đi tìm chúng — nhưng liệu chúng có biết cho như vậy không? Nếu chúng tới kiếm chúng ta, dương ngà nhe nanh hoăïc giơ vuốt, cách tốt nhất em phải thủ sẵn khẩu cạc-bin Winchester của em.
Joseph gật đầu một cách máy móc:
- Cứ cho là vậy.
Hai anh em ra khỏi buồng ngủ từ lúc sáng sớm để thưởng thức ngọn gió nhẹ nhàng tươi mát ban mai. Joseph leo lên đứng trên cuộn dây thừng sát lan can kế bên Chuck, tiếp tục đọc sách. Nước trong xanh nơi cửa biển Cần Giờ biến thành một luồng bùn nâu khi con tàu chạy theo sông Lòng Tảo để vào vùng nội địa. Lúc này, hai bên bờ sông san sát tiếp liền nhau những hàng rào thiên nhiên gồm cây cao vút, lá tươi xanh cùng giây leo quyện vào nhau, rủ lướt thướt trên mặt nước.
Thỉnh thoảng qua một chỗ đất trống, mắt hai cậu trai Mỹ bắt gặp đôi ba người dân bản xứ thân hình mảnh khảnh, đầu đội nón lá buông đang cúi mình trên dây rớ hoặc nơm cá nhưng chẳng mấy khi họ ngước mặt lên nhìn; chỉ bọn trẻ con trần truồng bụng ỏng có để ý đôi chút tới các cậu. Khi chiếc Avignon rẽ nước chạy qua phía dưới bờ sông nơi chúng đang đứng ở mé trên, chúng đưa đôi mắt nâu ngó con tàu; ánh mắt ngô nghê không cho thấy chút cảm tưởng nào. Thỉnh thoảng đâu đó có tiếng chim thét lên thất thanh làm hai anh em giật thót người. Còn ngoài ra rừng nhiệt đới xanh tươi đang lấp lánh lướt qua vẫn im ắng lạ thường.
Sau cùng Joseph xếp sách lại, nhún chân và mở miệng:
- Anh Chuck này, em cá với anh rằng anh không biết tại sao có tên Sài Gòn, đúng không. Chuyện thú vị lắm.
Chuck cười cam chịu:
- Anh không biết tại sao nó mang tên đó nhưng anh biết chắc chắn có một kẻ ham đọc sách sắp cắt nghĩa cho anh nghe.
- Có người bảo theo tiếng An Nam cổ, Sài Gòn có nghĩa là “Rừng Gòn”, tên một vùng đất mọc nhiều cây gòn, còn gọi là cây bông gạo. Có người lại bảo Sài Gòn là cách viết chữ nôm của người Việt về danh xưng theo tiếng Khmer là “Prei Mokor”, nghĩa là xứ ở giữa rừng. Ngày xưa nó là một làng nhỏ ở giữa rừng già. Nhà cửa thưa thớt, chung quanh bùn lầy nước đọng. Tới thế kỷ 19, người Việt và người Hoa, với sự tiếp tay của thương buôn người Âu lập thành Sài Gòn Chợ Lớn, gọi chung là Bến Nghé, nghĩa là bờ sông có trâu tơ gọi mẹ. Người Hoa dùng danh từ “Thầy Nguồnn, Đề Ngạn” để gọi vùng thương mại Chợ Lớn, còn danh từ “Xi-cóon, Tây Cống” để chỉ xóm của người Việt tức là chợ Bến Thành. Nhưng có kẻ lại bảo “Tây Cống” có ý nghĩa là cống hiến cho người phương Tây.
Chuck nói bông lơn:
- Cực kỳ hấp dẫn! Em vẫn là xếp sòng sở cung cấp những thông tin chẳng mấy người xài tới!
Thuyền trưởng Avignon, trong bộ đồng phục oai vệ mới ủi hồ cứng vừa theo cầu thang đi xuống, mỉm cười khi nghe hai anh em trêu cợt nhau. Ông tới gần, chào cả hai bằng lối bắt tay kiểu Pháp rất trang trọng:
- Hai người bạn nhỏ tuổi thân mến của tôi ơi, dù người An Nam đặt cho nó cái tên gì đi nữa các cậu cũng sẽ sớm biết được rằng người Pháp chúng tôi gọi thành phố các cậu sắp ghé lại là “Hòn ngọc Viễn đông” hoặc đôi khi còn gọi là “Paris Phương Đông”. Và để hiểu tại sao lại gọi như thế, các cậu chẳng mất nhiều thì giờ lắm đâu.
Joseph thấp giọng hỏi, hất cằm về phía vô số bộ mặt vàng vọt, vẫn yên lặng chen lấn nhau dồn tới nắp vỉ sắt phía dưới boong tàu:
- Nhưng tại sao hết thảy những người Tàu ấy đều muốn tới chỗ đó?
- Sài Gòn là một thành phố kép gồm cả Chợ Lớn, nơi cách đó một quãng đồng chừng vài ba cây số — là chỗ người Tàu muốn tới. Theo tiếng An Nam, Chợ Lớn có nghĩa là “Cái chợ to lớn”. Bọn người Tàu ấy hy vọng sẽ trở thành những kẻ giàu có như nhiều di dân Quảng Đông đã đạt được bằng cách bóc lột lũ An Nam lười biếng. Hiện có tới hai trăm ngàn người Tàu sống ở Chợ Lớn. Ở đó, các cậu có thể mua đủ thứ, từ dọc tẩu thuốc phiện cho tới “ca nữ” mắt xếch!
Thuyền trưởng dừng lại, kín đáo nháy mắt với Chuck để gây chú ý tới câu nói bóng gió của mình.
- Thân phụ các cậu cũng sẽ phải vào Chợ Lớn để sắm cho đủ vật dụng đi săn. Cậu nhớ cảnh giác ông phải cẩn thận. Mặc cả thật gắt! Bọn Tàu là dân Do Thái Á Đông đấy.
Chuck sốt ruột hỏi:
- Thưa thuyền trưởng, phải mất bao lâu nữa chúng ta mới tới được chỗ đó. Rừng này có vẻ như kéo dài tới vô tận.
- Monsieur Charles ạ, bình thường tàu chạy từ cửa Cần Giờ tới bến cảng Sài Gòn mất sáu bảy tiếng đồng hồ.
Khoảng một trăm cây số. Tôi tiếc rằng chẳng mấy chốc nữa chúng tôi buộc lòng phải chào tạm biệt các cậu và vị phụ thân cao quí của các cậu.
- Với tôi, ông thuyền trưởng ạ, như thế chẳng chút nào là quá sớm!
Thượng nghị sĩ Sherman vừa cười niềm nở vừa nói sang sảng khi băng ngang boong tàu để tới gần chỗ họ đứng, trên người ông vẫn mặc áo khoác. Ông tiếp:
- Dĩ nhiên tôi không có ý thất lễ. Trên con tàu này, lòng hiếu khách quảng đại của ông khiến chúng tôi vô cùng hãnh diện. Nhưng giờ đây điều băn khoăn lớn nhất của tôi là làm sao cho mau hết quãng đường này để vô rừng bắt đầu cuộc săn bắn càng sớm càng tốt.
- Thưa thượng nghị sĩ, ông dự tính kiếm thứ gì? Một bộ da cọp đem về trải sàn nhà? Hay một cặp ngà voi để gắn lên vách?
- Không phải vậy đâu ông thuyền trưởng. Chúng tôi không phải là người đi săn để tìm vật kỷ niệm. Trước khi qua đời, cụ thân sinh của tôi có thành lập một ban bảo trợ huy động vốn cho Nhà Bảo Tàng Ngành Vạn Vật Học Sherman tại thủ đô Washington. Ông biết không, vạn vật học là sở thích đặc biệt của cụ. Cụ mất cách đây đúng năm năm nhưng nhà bảo tàng ấy chỉ vừa được xây dựng xong bên trong Khu Thương mãi ngay mé dưới Điện Capitol. Thuyền trưởng ạ, toà nhà ấy thật đẹp, xây bằng đá hoa cương, trông như một cung điện cổ xứ Florence. Vì vậy chúng tôi chỉ muốn trưng bày ở đó những dã thú hạng nhất mà ngay tại đây, trong rừng núi này của quí vị, chúng tôi sẽ sưu tập được một số thú vật hiếm và quí nhất thế giới.
Thượng nghị sĩ ngưng nói để châm điếu xì-gà Havana đầu tiên trong ngày. Thuốc bén lửa, qua làn khói, ông chăm chú quan sát cây rừng đan nhau chằng chịt như trải thảm dọc hai bên bờ sông Lòng Tảo. Qua góc mắt, Joseph liếc thấy mẹ vừa ra khỏi khu buồng ngủ. Khi Flavia đặt chân lên cầu thang dẫn xuống boong tàu, gió nhẹ thổi chiếc áo sơ-mi lụa màu kem dán sát vào những đường nét trên thân thể bà. Đầu cầu thang, Flavia thấy một viên sĩ quan bậc ba đưa tay lên mũ chào nhã nhặn, bà sung sướng vẫy tay đáp lại. Joseph nhận thấy mẹ tránh không đi gần các nắp vỉ sắt đang khóa chặt then nơi khu vực giữa boong. Ra tới đuôi tàu, trong một thoáng Flavia đăm đăm nhìn rừng xanh rồi nhắm mắt, ngửa mặt về phía mặt trời ấm áp dịu êm ban mai.
Thượng nghị sĩ tiếp tục trả lời. Giọng Mỹ miền nam của ông lề mề kéo dài, sang sảng ngân vang trong khung cảnh tịch lặng đang bao trùm sông nước:
- Chúng tôi tìm chủ yếu là trâu nước, heo rừng và nhất là trâu rừng, đặc biệt con min, một loại thú bị gọi là trâu rừng Mã Lai nhưng thật ra nó là đặc sản nhất thế giới của An Nam. Và không những chỉ muốn có con trâu đực to lớn đó thôi, chúng tôi còn cần mỗi loại một đôi — sẵn dịp, có thể luôn cả da nai nữa. Như thế đòi hỏi một cuộc săn lùng cực kỳ gay cấn. Chúng tôi sẽ lột da thú tại chỗ và bảo quản da chưa thuộc để có thể chở về Mỹ nhồi bông. Sau đó, chúng sẽ được đem triển lãm làm thành một mô thức được chúng tôi gọi “trưng bày giữa môi trường sống” để cho hết thảy dân chúng ở nước Mỹ xa xôi, và kể cả những ai không bao giờ tới xứ An Nam hẻo lánh, cũng đều được nhìn các con thú ấy tại thủ đô của chúng tôi như thể họ từng sống trong chốn rừng sâu núi thẳm này. Sau đó, chúng tôi sẽ phái các đoàn thám hiểm khác đi Ấn Độä và châu Phi lùng tìm cọp và voi. Thuyền trưởng thấy đấy, tôi muốn làm sao cho Nhà Bảo Tàng Sherman thành nơi có một không hai của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, thậm chí có thể là số một của thế giới.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:53 AM
Đưa mắt thắc mắc ngó Chuck rồi Joseph, thuyền trưởng hỏi:
- Nhưng người nào trong gia đình ông là nhà thiện xạ hàng đầu?
Nathaniel xoa đầu cậu con lớn, trả lời ngay:
- Chuck đây là “tay thiện xạ”’. Nó đã học không sót chút nào những gì tôi có thể dạy cho nó. Mùa thu nào chúng tôi cũng đi săn trong rặng núi Tây Virginia. Lúc này nó bắn hầu như chẳng kém gì bố.
Thuyền trưởng lại hỏi, cất cao giọng, có phần nào khó chịu và hơi nhuốm vẻ trêu cợt:
- Và Monsieur Joseph đây chắc chắn cũng là “một tay thiện xạ”?
- Joseph chưa sẵn sàng đâu. Tôi nghĩ nó có thể bắn khá giỏi nếu nó muốn, hiềm vì nó chưa quyết định có ham thích ý tưởng đó hay không.
Thượng nghị sĩ dần dần thôi cười. Ông nghiêng người qua lan can, vẫy cho tàn thuốc xì-gà rớt xuống mặt sông quyện bùn:
- Mẹ của nó vốn không tha thiết lắm với chuyện săn bắn. Có thể nó có phần nào đứng về phía mẹ. Tôi đoán rằng biết đâu ngay tại Nam Kỳ này, chúng tôi có thể sẽ phát hiện cái mà Joseph thật sự muốn.
Thuyền trưởng thấy hai khoé miệng của Joseph chợt mím chặt. Rồi cậu bé Mỹ lại mở lớn đôi mắt, sôi nổi chỉ vòng qua lan can bên phải mạn tàu:
- Thuyền trưởng ơi, cái gì ở chỗ đó vậy? Có phải đó là một đền thờ của dân bản xứ không? Trông nó thật vĩ đại.
Nhìn hai đỉnh tháp nhọn bằng đá màu xám nhạt hiện rõ dần như thể vươn lên từ giữa rừng xanh thẳm, thuyền trưởng lại cất tiếng cười:
- Monsieur Joseph ạ, tôi tin rằng tới ngày nào đó, cái đóù sẽ trở thành một loại đền thờ của dân bản xứ, tuy nó được dựng lên trên nền một ngôi chùa cổ. Nó là biểu hiệu mọi thời cho tôn giáo chính ở nơi quê cha đất tổ của chúng tôi, biến nước Pháp thành nữ tử của Giáo hội Công giáo La Mã. Đó là hai tháp chuông song lập của Nhà thờ Chánh toà Sài Gòn — và đó cũng là cảnh tượng tráng lệ thứ nhất của “Hòn ngọc Viễn đông” được các du khách thưởng ngoạn trước tiên.
Vì Joseph đứng mé cuối lan can, phải nhóng cổ lên nhìn cho rõ hơn nên cậu phản đối:
- Nhưng thưa thuyền trưởng, lúc này chúng ta đang không thẳng mũi tàu theo hướng hai cái tháp đôi đó.
- Đúng vậy, nhưng không phải nhìn từ tọa độ này. Sông Lòng Tảo lúc này bắt đầu ngoằn ngoèo y hệt con rắn. Tàu đi như thể bò qua một mê cung. Lần nào tới chỗ này tôi cũng bắt đầu băn khoăn tự hỏi không biết mình có đi lạc vào một luồng nước khác khiến tàu bị chạy ngược trở lại ra biển không.
Các bánh lái của tàu Avignon bắt đầu đu đưa lẹ làng khắp mọi chấm trên hải bàn khi dòng sông tiếp tục uốn lượn quanh co qua rừng thẳm. Đỉnh nhọn của hai chiếc tháp Nhà thờ Đức Bà như lao tới, chỉa quanh con tàu. Thoạt đầu vọt lên một phần tư ngọn tháp bên này rồi tới ngọn tháp bên kia, như hai tai của một chú thỏ tọc mạch đang vểnh lên nhìn theo đường tiến của con tàu. Mới phút trước Joseph vừa thấy chúng ở mạn trái, phút kế đã thấy chúng ở mạn phải. Có lúc chúng bất chợt xuất hiện sừng sững đằng sau đuôi tàu khi dòng sông quành ngược lại.
Một giờ sau, con tàu ra khỏi Rừng Sác. Cả nhà Sherman bỗng thấy trước mắt một cánh đồng phù sa điểm lấm chấm những lùm cây cọ mọc rải rác. Hai bên mạn tàu, trong những thửa ruộng tiếp liền nhau trải dài như vô tận, họ thấy các đám đông người An Nam đầu đội nón lá đã khom người sẵn ở đó từ lúc nào. Thỉnh thoảng những nhà nông ấy vươn thẳng lưng hoặc xoay người lội bì bỏm trong bùn lầy hoặc mặt nước sình đặc quánh tới ngang bụng.
Flavia Sherman đứng chung với cả nhà một lúc ở lan can, tay đặt lên vai Joseph nhưng trông bà có vẻ bứt rứt. Chẳng bao lâu bà thấm mệt khi quan sát nông dân canh tác dưới các thửa ruộng. Tới lúc mặt trời lên cao hơn trên bầu trời, sức nóng càng lúc càng ngột ngạt, Chuck và cha cũng lui chân, rút vào bóng mát trong buồng. Joseph đi theo họ một chút để nhai ngấu nghiến bữa ăn trưa, rồi một mình vọt ra lại boong tàu. Đầu đội mũ cối, đứng tựa lan can, cậu háo hức đưa mắt hau háu nhìn từng chi tiết cảnh sắc đang liên tục thay đổi.
Con tàu Avignon hết vào lại ra khu vực ven rừng rậm rạp, vắng vẻ và lầy lội. Thỉnh thoảng qua những chỗ quang đãng trên bờ, mắt Joseph lại bắt gặp các xóm nhà sàn vách xám xịt. Cậu đưa mũ lên vẫy vẫy mấy người An Nam đang ngồi chồm hổm trên sân đất trước cửa nhà nhưng họ chỉ trơ mắt ngó cậu, không chút động đậy.
Khi lòng sông rộng hơn, chiếc Avignon bắt đầu chạm mặt một con tàu khác từ Sài Gòn chạy trở ra, xuôi theo chiều thủy triều đang rút. Joseph tự hỏi làm thế nào những chiếc thuyền mành mỏng mảnh kiểu Trung Hoa với buồm sờn rách, vá chằng chịt, lại không bị chìm lỉm khi chúng nặng nề lê mình giữa một dãy tàu vận tải nặng và cáu bẩn đến từ châu Âu và châu Mỹ La tinh. Một tàu khách của Pháp đường bệ lướt qua; từ trên lan can tàu, những bộ mặt phương tây xen kẽ với những bộ mặt Á Đông tò mò, đăm đăm nhìn xuống.
Rồi con tàu Avignon rẽ đường tiến tới, xuyên qua một đoàn thuyền tam bản đang lướt xuôi theo con nước để chở chút hàng hóa lưa thưa hoặc chạy việc lặt vặt. Joseph sửng sốt thấy các thuyền đó hầu hết đều do phụ nữ đứng chèo chênh vênh hoặc ngồi đạp hai mái dầm. Dần dần, mặt nước chỉ còn rải rác thuyền bè qua lại, con tàu Avignon êm đềm lướt theo dòng sông lợn cợn bùn trong bầu không khí tĩnh lặng sâu lắng của cơn thủy triều đang lên ban trưa.
Lát sau, Joseph ngạc nhiên thấy đột nhiên xuất hiện một bến tàu bằng đá trắng. Kè đá dài nằm song song với một đại lộ đầy bóng mát chạy dài giữa hai hàng hồ tiêu mượt mà như lông tơ. Quang cảnh đột ngột của những toà nhà kiểu châu Âu làm phản chiếu trở lại trong tâm trí Joseph cảnh tượng những khu rừng, các cánh đồng, làng mạc họ vừa lướt qua trong mấy tiếng đồng hồ trước đó và có vẻ vẫn y nguyên như thế qua nhiều thế kỷ. Nhưng thật rõ ràng trước mắt, hai chiếc tháp song đôi lúc ẩn lúc hiện của Nhà thờ Đức Bà cậu thấy từ đằng xa, lúc này đứng yên một chỗ, xám một màu, trông rõ mồn một, như đứng canh gác những con đường thênh thang chạy giữa các hàng cây thẳng tắp. Cuối cùng, họ thật sự tới điểm đến!
Thế rồi Joseph nhận ra lý do khiến người ta hoàn toàn kinh ngạc khi bất chợt vào thành phố này: nó thinh lặng lạ thường. Đường phố hoang vắng, không nghe có chút âm thanh nào — không tiếng động xe cộ, không tiếng ồn ào đám đông chen chúc nhau, không trẻ em, không loài vật. Cũng không có gì di động dọc theo kè đá đằng trước dãy nhà trệt im vắng dùng làm trạm hải quan.
Bỗng dưng Joseph cảm thấy người choáng váng, buồn nôn, khi ánh mắt cậu chạm tới hàng hàng la liệt thân xác con người ta đang nằm trong bóng mát các toà nhà nơi bến tàu, dưới những gốc cây hồ tiêu. Tay run lẩy bẩy, Joseph chụp ống nhòm. Cậu rà ống kính dọc theo kè đá dài trong khi chiếc Avignon tiến vào gần hơn. Cậu xem xét thật tỉ mỉ từ đống hình nhân này tới đống hình nhân khác. Rõ ràng, không nghi ngờ gì cả! Người ta ngã gục, đang nằm im lìm, miệng há hốc, hai ống chân khẳng khiu xoắn vào nhau. Qua ống kính, cậu thấy rất rõ quần áo của họ cùng với mặt mày họ đỏ lòm máu.
Vừa chạy tới phía cầu thang Joseph vừa hớt hãi lớn tiếng gọi:
- Thuyền trưởng ơi! Thuyền trưởng ơi! Ông tới đây mau, có một cuộc tàn sát khủng khiếp ở Sài Gòn.
Thuyền trưởng ra khỏi phòng lái. Trước cơn kinh hoảng của Joseph, ông cười cười:
- Một cuộc tàn sát ư, Monsieur Joseph?
Mặt Joseph biến sắc xanh rờn:
- Vâng. Đúng. Ông ra mà coi máu... Nhìn kìa! Máu trên mặt họ! Trên quần áo họ! Người họ đầy máu!
Trong một chốc, thuyền trưởng ngó theo hướng ngón tay của cậu bé Mỹ. Rồi đưa cườm tay trái lên, chỉ cho Joseph thấy mặt số trên chiếc đồng hồ đeo tay, ông nói:
- Coi này, Monsieur Joseph, chưa tới hai giờ. Vẫn đang trong giờ ngủ trưa đấy. Ở xứ nhiệt đới này trong khoảng từ mười một giờ tới hai giờ trưa không người nào đi lại cả. Ai cũng phải ưu tiên lo cho mạng sống đang lâm nguy của mình. Hết thảy đồng bào của tôi giờ này đang nằm lơ mơ ngủ với quạt máy trong nhà mình còn dân bản xứ không được may mắn như thế.
Ông khoa tay dọc theo bến tàu:
- Họ chỉ có bóng mát của cây cối thôi.
- Nhưng tại sao trên người họ dính đầy máu?
Thuyền trưởng cười lớn:
- Đó chẳng phải máu đâu, Monsieur Joseph. Người An Nam phần nhiều có thói quen ăn trầu. Đó là một loại thuốc gây tê mê, như một thứ ma túy nhẹ. Nó làm xỉn xỉn giác quan nhưng chất nước của nó dây màu đỏ ra chung quanh miệng và trên quần áo của họ — nó còn làm đỏ đường đỏ sá khi họ nhổ xuống đất.
Joseph ngó ông chằm chặp, không tin. Rồi cậu nhìn khu vực bến tàu đầy đá dăm thêm lần nữa. Cậu thấy trong bóng mát dưới gốc cây những cu-li An Nam “bị tàn sát” bắt đầu về lại cõi đời. Chầm chậm và có vẻ nhức mỏi, họ duỗi hết chân này tới chân khác rồi lạng quạng đứng dậy. Máy tàu ngừng chạy. Thủy thủ đoàn bắt đầu ném dây chảo xuống cho một người da trắng đội mũ cối vừa từ văn phòng khu vực bến tàu đi ra. Các cu-li bắt đầu từ trong bóng mát đi về phía con tàu, bằng những bước chân như của kẻ mộng du. Khi họ tới nơi, nhiều người trong bọn họ nhổ toèn toẹt, để lại đằng sau những vệt đỏ thẩm nước bọt cốt trầu trên kè đá kiên cố và nóng bỏng.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:55 AM
Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 3 -
“Xe kéo! Xe kéo!” Chuck Sherman vừa gào thật lớn vừa lao người nhảy xuống mấy bậc cấp Khách sạn Continental Palace, phóng ra đường Catinat, tay đưa lên cao vẫy vẫy theo kiểu tây thuộc địa. Lập tức một đám cu-li xe quành tay ra sau lưng, chụp càng xe, chạy ào lại. Cậu vừa la vừa vọt lên chiếc xe chạy tới trước nhất. “Đi! Đi! Chạy lẹ lên!” Chuck vỗ tay hô to và phu xe lập tức cất chân sải như điên, chạy dọc đại lộ Catinat.
Joseph leo lên xe kéo khoan thai hơn. Mặc lễ phục dạ hội màu trắng ủi thẳng nếp, thắt cà vạt đen, hai anh em đang trên đường tới dự buổi tiếp tân long trọng và đầy vinh dự dành cho thân phụ mình tại dinh thống đốc Nam Kỳ. Nhưng thay vì dùng chung xe Citroešn được trang trọng phái đến đón cả nhà, Chuck cứ nhất quyết xin cho hai anh em được di chuyển bằng xe kéo:
- Đi bằng cách đó chúng con sẽ thấy quang cảnh thật sự của Sài Gòn hơn.
Trong khi xin phép cha như thế, cậu kín đáo nháy mắt với Joseph và thì thầm sát tai em:
- Ai tới sau là đồ con rùa! Tụi mình đua, được chớ?
Chưa kịp nghe Joseph trả lời bằng lòng hay không, ông anh đã vọt lên xe, vừa cười ha hả vừa thúc phu xe mở hết tốc lực chạy dọc đường phố.
Ngồi trên nệm xe, nhìn thẳng tới trước, hình ảnh đập vào mắt Joseph là mấy rẻo tóc bạc bên dưới vành khăn trắng rằn đen ướt đẫm mồ hôi cột quanh đầu bác phu xe luống tuổi, khiến cậu không nỡ ra lệnh cho bác phi nước đại. Bác phu xe ở trần, hai tay túm càng xe. Lúc hai chân bác chạy đều bước giữa hai tay càng, mấy đồng xu — có lẽ là số tiền còm cỏi kiếm được suốt hôm đó — rung leng keng thê thiết trong chiếc túi vải nhỏ buộc chặt đằng trước dải lưng quần.
Xe chạy chưa được vài trăm thước, Joseph thấy bên lề đường, một ông tây thuộc địa to béo hung dữ bạt tai một phu xe An Nam ngay khi y vừa bước xuống xe kéo. Cậu bé Mỹ quay người lại dòm chừng, có ý chờ xem một cú trả đòn. Nhưng người cu-li An Nam đưa tay lên rụt rè xoa xoa má, an phận chấp nhận cú đánh. Không một người phương tây nào qua đường bỏ công ngó anh ta lần thứ hai. Khoảng ba mươi giây sau, một người Pháp, sau khi mặc cả tiền xe, thô bạo dộng vô đầu một phu xe khiến người cu-li ấy lảo đảo té chúi nhủi xuống rãnh nước. Joseph tái mặt nhận ra rằng những cú đánh cú đấm như thế là chuyện rất bình thường.
Từ lúc xe chạy khuất khách sạn, Joseph ngẫm nghĩ áy náy mãi tại sao lại để một người luống tuổi kéo xe chở mình chạy qua chỉ mấy khúc phố ngắn trong khi mình có thể đi bộ dễ dàng. Cậu bắt đầu phân vân tự hỏi không biết mình nên tiếp tục ngồi xe hay bước xuống. Nhưng rồi xe của Joseph cũng bắt kịp Chuck vì rốt cuộc Chuck cũng mủi lòng, cho phép người phu xe đang mất thở được chạy chậm lại.
Joseph thấy anh cười tươi rói, khoan khoái ưỡn người trên ghế xe, rõ ràng lương tâm Chuck chẳng có chút nào dằn vặt giống như của cậu. Chuck nói vói qua, giọng cố ý làm ra vẻ lè nhè theo kiểu bông phèng của dân đại học Harvard:
- Joey này, theo anh thì lối di chuyển bằng cổ xe nhỏ phương đông này chẳng có chút nào chẳng thoải mái. Em có thấy hoàn toàn đúng y như vậy không?
Joseph lật đật trả lời:
- Không tệ — không tệ chút nào.
Nói xong, cậu thử thả lưng ra nệm xe, cố làm ra vẻ ung dung giống hệt anh trong khi hai xe chạy sóng đôi dưới ánh đèn đường.
Xe lướt đi giữa trời chạng vạng tối, hai anh em thấy thành phố đã chuyển mình vì không còn hơi nóng. Những hàng cây héo hon và im ắng khi họ mới đến vào cuối giờ ngủ trưa lúc này hồi sinh thật lẹ.
Đại lộ Catinat, đường phố chính của Sài Gòn, nối liền bến tàu và nhà thờ chánh toà, hai biểu tượng cho thương mại và tôn giáo, hai mục đích song sinh đã khiến người Pháp ra tay biến xứ sở này thành thuộc địa. Trong các tiệm cà phê thời thượng dọc hai bên đường, họ thấy những người An Nam hầu bàn, đội mũ lúp trắng, mặc áo bờ-lu bằng vải lanh trắng, đang tỏ vẻ cung kính chạy tới chạy lui giữa những chiếc bàn mặt đá hoa cương sắp thành từng dãy, rót rượu khai vị cho các nhóm người tây lừ đừ uể oải. Dưới những gốc me, dân Pháp mặc vét-tông trắng đi dạo mát bên các phụ nữ của họ, tự tin và lửng thửng từng bước, xen lẫn với đám đông người bản xứ — những ông quan cằm để một chòm râu nhọn và thưa, mặc áo thụng kiểu Tàu; những thanh niên An Nam đội mũ nỉ tròn, khoác áo măng-tô mỏng màu xanh lá cây dài tới đầu gối; đôi ba đám dân quê tiều tụy, mặc áo bà ba bằng vải màu nâu hoặc đen, đội nón lác vành to như bánh xe ngựa, chân đi guốc gỗ. Hai anh em để ý thấy hầu hết trên miệng người An Nam, giàu cũng như nghèo, đều thắm đỏ nước cốt cau trầu.
Nhưng rồi bằng chứng của tục ăn trầu đó không còn bắt mắt hai cậu trai Mỹ. Giữa đám đông đang đi nhàn tản, những thiếu nữ An Nam mảnh mai duyên dáng trong chiếc áo dài lụa cổ truyền đột nhiên hút chặt con mắt nhìn ngắm của cả hai anh em. Trang phục màu tùng lam của họ vừa kín đáo vừa hấp dẫn, ôm kín người từ cổ tới hông, dính sát từng đường nét trên bộ ngực nhỏ nhắn và thanh tú làm tăng vẻ quyến rũ của gờ vai thanh mảnh, vòng eo ẻo lả và nếp cong mềm mại của bờ hông tươi trẻ. Tuy vậy từ hông trở xuống, hai tà áo trước và sau nhẹ như tơ cùng chiếc quần dài lụa trắng gợn sóng lại thầm kín che giấu đôi chân và bắp đùi. Trước mắt Chuck và Joseph, những thiếu nữ Sài Gòn đầy hấp lực này dường như không bước đi bằng đôi chân của mình mà êm ái lướt bềnh bồng dưới hàng me trong gió nhẹ chiều hôm.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:57 AM
Chuck nôn nao nhìn từng thiếu nữ khi xe cậu chạy ngang nhưng họ đều lãng tránh ánh mắt cậu. Từ trên xe đang bon bon chạy cậu nhe răng cười, nói vói qua xe em mình:
- Mấy cô bé bản xứ này hầu hết đều có vẻ dễ thương giá như họ đừng đoan trang quá đáng, phải không Joey?
Joseph bập bập môi thành tiếng, cảm thấy mình lớn hẳn. Cậu toét miệng cười:
- Đúng vậy đó, anh Charles!
Từ lúc bước chân ra khỏi lô phòng ở khách sạn, Joseph có cảm tưởng tối nay thế nào mọi con mắt Sài Gòn cũng nhìn mình vì đây là lần đầu tiên trong đời, cậu thiếu niên Joseph diện bộ dạ phục màu trắng. Ban nhạc của Khách sạn Continental đang chơi bản “Tea for Two: Trà cho đôi ta”, một giai điệu mới, hiện được nhiều người ưa chuộng. Chưa xuống tới tầng trệt của khách sạn Joseph đã khá ngạc nhiên nhận ra rằng chẳng một ai quay đầu về phía mình. Cậu để ý thấy vẻ mặt thèm muốn của vài phụ nữ Pháp đang đưa mắt ngắm vóc dáng cao lớn đẹp trai và bắt mắt của ông anh mình. Khi hai xe kéo chạy sát bên nhau, Joseph đưa mắt liếc Chuck thật lẹ. Cậu đề quyết chắc chắn cái làm cho mình hoàn toàn khác với ông anh chính là bộ ria màu hung Chuck mới để. Lòng ấm ức, Joseph đưa ngón tay lên mép nhưng chỉ rà được mấy sợi lông măng mọc li ti.
- Joey này, ngó em diện bộ dạ vũ trắng thiệt là bảnh trai!
Chuck đột nhiên nói to như thể đọc được bụng dạ em. Hai chiếc xe kéo đang chạy kề nhau, cậu nghiêng người qua trìu mến thụi thụi bắp tay em:
- Anh chắc chắn tối nay em là người đẹp nhất buổi dạ vũ Sài Gòn.
Joseph nhào sang, tính trả đũa bằng một cú đấm lại vô bụng anh nhưng ngay lúc ấy hai chiếc xe dang xa ra, lết bánh rồi dừng lại. Joseph nhìn tới trước, thấy lằn đường phía bên mình bị nghẽn vì ngược đường đằng trước có hai chiếc xe kéo tay cỡ lớn, bánh niềng sắt, loại dùng để chở hàng. Một chiếc đang lật nghiêng. Hai anh em sửng sốt thấy một người Âu da ngăm ngăm đen đang vung cây roi tre to tướng lên quất tới tấp.
Ban đầu Joseph và Chuck cho rằng có con vật nhỏ nào đó đang khuỵu chân giữa hai càng xe nhưng khi nhìn gần hơn, họ nhận ra người Âu đó không đánh một con vật ngã quị mà là đang quất một người An Nam chân cẳng khẳng khiu. Hai anh em cũng thấy đó là hai chiếc xe chở đá thải. Xe trước giống hệt xe sau. Mỗi cặp càng xe đóng khung thành một cái gông. Bốn người An Nam kéo xe mình mẩy mướt mồ hôi, trên cổ mỗi người tròng một sợi dây thòng lọng bằng mây, lớn bằng ngón tay cái. Hai cổ chân của con vật người nặng gánh ấy còn bị đeo xích sắt nặng nề, gắn vào một cái nẹp dày bằng thép siết chặt quanh hông mỗi người.
Hai cậu trai Mỹ chăm chú nhìn cây roi tre vung lên quật xuống, nghe tiếng vun vút kinh tởm của ngọn roi quất sàn sạt vào xương và thịt. Trong khi người An Nam té khuỵu đang lảo đảo cố đứng lên khỏi mặt đường đầy bụi, Joseph và Chuck thấy máu từ những lằn roi rịn ra, ứa đỏ thẩm trên lưng người kéo xe. Mắt nhắm nghiền đau đớn, anh ta và ba người kia, tất cả đều bị buộc dòng dây vào càng xe, làu bàu thành tiếng rồi rán hết sức lôi cho chiếc xe nặng chình chịch nhúc nhích trở lại. Chầm chậm, xe bắt đầu lăn bánh. Gã tây thuộc địa lại quát tháo mắng chưởi hết người nọ tới người kia, thúc cho xe lăn bánh nhanh hơn.
Khi hai chiếc xe tải kéo tay đó đi ngang hai cậu trai Mỹ đang ngồi yên trên chiếc xe kéo bị mắc kẹt của mình, người An Nam vừa ngã gục trước đó nhướng mắt ngó lên. Tia nhìn đau đớn u uất của anh ta quyện lấy ánh mắt của Joseph. Rồi hai mi mắt anh ta lại cụp xuống. Những đường gân dưới cằm và trên trán lại vồng lên khi anh ta càng lúc càng cố hết sức rướn người tới trước làm căng sợi dây thòng lọng siết quanh cuống họng.
Hai chiếc xe chở đá vừa đi qua hẳn, Joseph xoay bộ mặt xanh rờn sang phía Chuck:
- Anh Chuck này, những người vô phước khốn khổ đó trông có vẻ như sắp chết tới nơi.
Chuck gật đầu ác liệt:
- Chắc chắn lần này cái trên lưng họ không phải là nước trầu.
Một người Pháp còm ròm, vai khọm, mang kính cặp mũi, đang đứng trên lề đường, mắt dòm chừng, hai tai dỏng lên nghe ngóng. Thình lình, hắn bước xuống giữa lòng đường, đi thẳng tới, ngó lom lom mặt Chuck. Hắn đứng khá gần đủ để cậu thanh niên Mỹ ngửi ra mùi tỏi trong hơi thở của hắn tỏa thành luồng theo từng lời hắn nói:
- Bọn chúng là những thằng tù! Tội phạm có án! Chúng nó bị như vậy là đáng kiếp. Không biết gì hết thì chớ có thương hại bọn chúng. Ai ở ngoài cuộc cũng thương hại tào lao như vậy.
Hắn vừa càm ràm bằng thứ tiếng Anh lơ lớ vừa nhăn bộ mặt xám ngoét lại, tỏ vẻ nhờm tởm. Tuôn xong mấy tràng đó, hắn vung chiếc gậy làm bằng cành cây cọ, đầu bịt bạc, vẫy vẫy về phía các đám người đang đi dạo chung quanh:
- Bọn chúng nó không giống với chủng tộc da trắng chúng ta. Chớ có suy nghĩ theo kiểu trật lất của các cậu. Bọn chúng nó hầu hết là lũ ăn không ngồi rồi, lười biếng vô tích sự. Đừng phí tình cảm cho bọn chúng!
Qua cặp kính đeo mũi hắn hung hăng ngó hết Chuck xong tới Joseph. Xong, hắn quay mình bỏ đi. Bước lộp cộp nặng nề, vai thô bạo huých mở đường giữa đám đông người An Nam đang đi tới.
Hai anh em nhà Sherman im lặng nhìn nhau rồi Chuck nhún vai bất cần, nhướng lông mày:
- Thuyền trưởng tàu Avignon nói chẳng sai chút nào, đây là một thế giới khác với thế giới của chúng ta.
Khi bác phu xe nâng càng xe lên, bắt đầu nhấc chân chạy tiếp, Joseph thấy cậu không thể tiếp tục nhìn đôi vai gầy mướt mồ hôi đang nhấp nhô trước mặt để xua tan hình ảnh những vệt máu đang ứa ra theo cây roi tre của gã tây thuộc địa người Pháp. Bỗng dưng cậu cảm thấy lòng tràn trề thương cảm. Và khi hai anh em tới dinh thống đốc, Joseph vừa vội vàng dúi hai đồng bạc vào bàn tay đang khum lại của bác phu xe vừa rối rít cám ơn bằng tiếng Pháp. Số tiền này nhiều gấp ba lần giá một cuốc xe thông thường. Ông lão An Nam đứng sửng người giữa hai càng xe, há miệng kinh ngạc nhìn theo Joseph cho tới khi cậu và Chuck biến mất vào trong dinh.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 09:59 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 4 -
Dinh thống đốc Nam Kỳ được xây bằng đá trắng theo kiểu phô trương và tân cổ điển bởi những người Pháp có lòng yêu nước nồng nàn từng dựng lên các công thự vĩ đại ở Paris vào cuối thế kỷ mười chín. Tọa lạc cuối đường La Grandière, bao quanh với các hoa viên kiểu cách, mặt trước của dinh hùng vĩ gồm những cột cao xẻ rãnh kiểu Hi Lạp và các hàng lan can chạm trổ, được vẽ kiểu với dụng ý như một tuyên ngôn kiên định bằng đá về sự kiêu hãnh và tự tin của mẫu quốc thực dân. Chót vót mái dinh là một vòm cao gắn kính, hình bát úp với khung rắn chắc bằng thép. Từ cột cờ trên nóc dinh, lá quốc kỳ tam tài màu xanh, trắng và đỏ của Pháp bay giập giờn trong gió nhẹ buổi tối.
Vừa tới nơi, Chuck và Joseph đã thấy cha với mẹ đang chờ hai anh em trên thềm cao, rộng thênh thang, cóù những bậc cấp bằng đá hoa cương. Một sĩ quan cao cấp, tùy viên của thống đốc, hướng dẫn họ tới khu vực tiếp tân, đi ngang một dãy phòng trần cao vời vợi hơn mười hai thước, sàn bóng láng đá cẩm thạch.
Trong đại khách sảnh, những người hầu An Nam đều mặc áo dài trắng trên tay bưng khay bạc. Họ nhón gót đi thầm lặng giữa các chậu cau kiểng để bồi tiếp rượu sâm-banh ướp lạnh cho một đám đông đảo tây thuộc địa tụ tập sẵn từ hồi nào. Đàn ông Pháp mặc giống hệt nhau, quần dài đen và áo ‘smô-kinh’ — một loại áo ngoài cắt chẽn ngang hông thường dùng để dự tiệc chiều — trong khi phụ nữ chưng diện y phục của các cửa hiệu thời trang trên đường Catinat, đủ trang nhã để làm họ quên Đại lộ La Paix ở Paris, cách Sài Gòn hơn hai chục ngàn cây số đường biển.
Dưới bức chân dung của Đại đế Napoléon to lớn đóng khung mạ vàng, thống đốc Nam Kỳ đích thân đứng nghênh đón gia đình Sherman. Ông tác người cao lớn, ngạo nghễ. Tóc mai dài và râu đen nhánh rậm rạp. Mình mặc bộ đồng phục màu xanh da trời được tô điểm công phu với những hạt nút bằng vàng thật. Nơi ngực bên trái chiếc áo chẽn lấp lánh huy hiệu Bắc đẩu Bội tinh và hàng chục huân chương. Trên chiếc bàn bên cạnh đặt phô trương một chiếc mũ ba sừng có cắm lông chim. Khi cả nhà Sherman tiến đến gần, thống đốc không mỉm cười, chỉ yên lặng chờ, tay đặt trên đốc kiếm nghi lễ. Thái độ tỏ vẻ tách biệt của thống đốc có ý gợi cho người khác thấy rằng ông tự đánh giá phẩm cách của mình ít ra cũng chẳng chút nào thua kém vị anh hùng truyền thuyết của Pháp đang từ trên bức vách đằng sau ông nhìn xuống.
Đưa bàn tay đeo găng trắng, thống đốc trịnh trọng lần lượt bắt tay từng người trong gia đình Sherman và nói: “Hoan nghênh đã tới thuộc địa rất xinh đẹp này của nước Pháp!” Nhưng khi thượng nghị sĩ tươi rói và nhã nhặn bắt đầu nói rằng gia đình mình vô cùng hân hạnh được tới nơi đây, ông liền bị sĩ quan tuỳ viên đưa tay ngăn lại. Anh ta ra hiệu cho cả nhà bước qua một bên để thượng cấp của mình có thể bắt đầu bài diễn văn chính thức.
Thống đốc phát biểu bằng ngôn ngữ nước mình, giọng sang sảng:
- Thưa Thượng nghị sĩ Sherman và Phu nhân, thật rất vinh dự cho tôi được đón tiếp một gia đình cao quí như gia đình quí vị đến xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Quí vị tới đây chủ yếu là để săn các dã thú quí và hiếm nơi rừng núi của chúng tôi hầu cho nhân dân Hoa Kỳ có thể chiêm ngưỡng khi chúng được trưng bày tại Nhà Bảo tàng Sherman ởû thủ đô Washington. Chúng tôi xin chúc quí vị trong thời gian lưu lại trên đất thuộc địa này của chúng tôi được nhiều may mắn và cuộc đi săn đạt kết quả tốt đẹp — nhưng như thế hẳn nhiên chưa đủ!
Ông ngẩng cao đầu, nhìn mông lung trần nhà trong khi sĩ quan tùy viên đọc bản dịch từng lời vừa nói trong một tờ giấy. Kế đó, ông tiếp tục, cũng bằng giọng cao điệu như thế:
- Hết thảy chúng tôi đều tự hào về sự tiến bộ được nước Pháp, trong những năm vừa qua, tạo ra tại Nam Kỳ và những miền đất khác của Liên hiệp Đông Dương thuộc Pháp. Tại đây, tôi hi vọng rằng quí vị sẽ thấy những bằng chứng cho mục đích đạo đức cao cả mà với nó chính quyền Pháp đang nỗ lực hoàn thành sứ mạng khai hoá của mình.
Thống đốc nói chậm lại để nhấn mạnh và kéo dài từng chữ trong thành ngữ Pháp “sứ mạng khai hoá”. Trong khi cố tình làm như vậy, ông kiêu hãnh đưa mắt lấp lánh nhìn chằm chặp khắp đám đông đang tụ tập:
- Chúng tôi đem lại cho cái góc hẻo lánh này của địa cầu những đường sá mới, đường xe lửa và đường dây thép, tới độ nếu không có những thứ ấy, xứ sở này sẽ suy kiệt với những vất vả lao nhọc của một quá khứ không tiến bộ. Chúng tôi đã và đang phát triển các đồn điền cao su, mỏ than và những tiện nghi kỹ nghệ hiện đại trong tinh thần hợp tác với những người An Nam lao động cần cù và siêng năng. Và hết thảy những công cuộc mở mang ấy đều nhằm mục đích phục vụ cho những lợi ích hàng đầu của dân chúng Pháp lẫn dân chúng An Nam. Chúng tôi hy vọng các vị khách quí người Mỹ hôm nay, trong những lúc đi lại trên xứ sở này, sẽ có cơ hội tán thưởng một số thành tựu của chúng tôi. Chúng tôi xin chúc toàn gia quí vị hạnh phúc và thu lượm được nhiều thành quả trong những ngày lưu lại tại vùng đất thuộc địa này.
Nhân lúc người tùy viên thông dịch những lời ấy, Joseph Sherman nhìn quanh phòng. Cái trước tiên đập vào mắt cậu là mấy nhóm người An Nam nhỏ thó đang thầm lặng đứng với vợ giữa những đàn ông và đàn bà người Âu cao lớn. Một số mặc áo thụng kiểu Tàu lấp lánh màu sắc và đội mão quan màu đen. Một số mặc áo dài the đen và quần trắng, đội khăn đóng. Chỉ vài người bận vét-tông. Nhưng người nào dưới cằm cũng để một chòm râu lưa thưa như một dấu hiệu cho hệ quả sự làm người An Nam. Joseph nhận thấy hết thảy họ, dù địa vị cao thấp khác nhau, đều có vẻ không được thoải mái, không nhìn thống đốc, cũng chẳng nhìn nhau và thường đưa mắt ngó xuống sàn nhà.
Nathaniel Sherman đáp từ. Giọng miền nam của ông khi cất lên trước công chúng nghe luyến láy hơn bình thường. Ông nói với cung điệu nhịp nhàng và uyển chuyển, cân nhắc và chậm rãi, vốn thường dùng trên diễn đàn Thượng nghị viện:
- Nếu những đường phố đáng yêu của Sài Gòn là cái gì đó đáng để đánh giá thì, thưa Monsieur Thống đốc, quí vị đã và đang mang những lợi ích văn minh lớn lao tới cho xứ thuộc địa nhiệt đới này của quí vị. Thủ đô xinh đẹp này của quí vị đang làm chứng trọn vẹn cho danh xưng của nó: “Hòn ngọc Viễn đông,” và dân chúng trên những đường phố này dường như mãn nguyện và hạnh phúc. Rõ ràng họ sống thoải mái dưới sự cai quản đầy nhân ái của quí vị...
Joseph nhăn mặt băn khoăn ngó sang Chuck. Rõ ràng cậu vừa kể cho cha nghe việc các cu-li xe kéo bị người đi xe đánh đập và dường như ông đã lắng nghe. Joseph thì thầm: “Anh có nghĩ là cha không tin em?” nhưng Chuck chỉ đáp lại bằng một cái nhún vai. Thượng nghị sĩ tiếp tục, giọng êm như ru:
- Thưa Monsieur Thống đốc, hai quốc gia chúng ta cùng duy trì những niềm tin giống nhau. Cả hai dân tộc chúng ta đều sẵn sàng và mong muốn gánh vác những trách nhiệm và bổn phận đang đặt lên vai các quốc gia thịnh vượng và hùng cường trên thế giới. Chính Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ từng là một xứ thuộc địa và đã chiến đấu gian khổ cho nền tự do và độc lập của mình. Tôi chắc chắn sứ mạng *** sáng và khai hóa của quí vị mà, một cách vô cùng vị tha, đã và đang đem lại những phương tiện liên lạc và kỹ nghệ hiện đại, sẽ bảo đảm rằng nơi này không bao giờ cần tới bất cứ sự xung khắc nào...
Người tùy viên điềm tĩnh dịch sát nghĩa những lời thượng nghị sĩ đang nói. Thống đốc đột ngột ngước mặt ngó khi nghe đề cập hai tiếng “độc lập”. Nhưng ông chỉ thấy thượng nghị sĩ Mỹ đang nhón chân, duyên dáng cười đáp trả, và tiếp tục bài diễn văn của mình bằng giọng kéo dài, chậm rãi, không chút ngập ngừng:
- Tôi nghĩ rằng, thưa quí vị, có lẽ tôi nên vạch rõ mối liên hệ mật thiết hơn nữa giữa gia đình chúng tôi với nước Pháp.
Ngưng nói, ông hoa tay về phía vợ, như một xướng ngôn viên giới thiệu ngôi sao hấp dẫn nhất trong buổi trình diễn tối nay:
- Flavia, người vợ khả ái của tôi, chào đời tại một thuộc địa cũ của nước Pháp đã được bậc vĩ nhân trong bức chân dung đằng sau ông, thưa Monsieur Thống đốc, bán cho Hiệp chúng quốc vào năm 1803 với số tiền mười lăm triệu đô la. Hoàng đế Napoléon được món lợi lớn vì sớm muộn gì nước Pháp cũng phải từ bỏ đất đó, và nhờ thế, tôi cũng được một món lợi vô giá vì Louisiana đã cho tôi một người bạn đời đáng yêu với tất cả những nét quyến rũ có tính truyền kỳ của dân tộc quí vị.
Ông hướng sang Flavia, cười rạng rỡ. Bà cười đáp lại, má ửng hồng. Bà biết rõ, qua những biểu lộ lãnh đạm của các bà vợ Pháp trong buổi tụ họp này và qua sự ngưỡng mộ lộ liễu trong mắt các ông chồng mặt tai tái tươm mồ hôi của họ, rằng bà đã đạt được một thành quả ngoại hạng với sự chưng diện và vẻ diễm tuyệt của mình. Ngoài chiếc áo dạ hội bằng tơ màu tử đinh hương mộc mạc mà trang nhã, Flavia còn bạo dạn cài lên đầu những miếng ngà nhỏ giữ cho tóc gọn gàng và chải tóc ngược ra đằng sau làm nổi bật đôi gò lưỡng quyền cao, rồi để mái tóc buông xuống lưng xỏa thành một suối tóc đậm màu, tương phản rõ nét với chiếc áo dạ hội màu nhạt. Hai má Flavia vốn hồng hào sẵn nhờ cái nóng, kết hợp với niềm sảng khoái được là tâm điểm chú ý của mọi người và điều đó khiến nhan sắc của bà lộng lẫy thêm và tươi mát thêm. Thượng nghị sĩ tiếp tục:
- Nhà tôi đã mất hy vọng vào tôi từ lâu nhưng bà bảo đảm rằng hai con trai của tôi, Charles và Joseph đây, đang nói ngôn ngữ tổ tiên của mẹ chúng, và điều ấy mang lại lợi ích cho chúng tôi khi viếng thăm thuộc địa này của quí quốc.
Ông ngừng một chút để người nghe thấm lời xác định của ông. Rồi thêm lần nữa ông cười niềm nở với chủ nhân của bữa tiệc:
- Chúng tôi vô cùng cảm kích trước lòng nồng nhiệt cực độ của ông, thưa Monsieur Thống đốc, cùng sự tiếp đón ân cần và hiếu khách của tất cả quí vị.
Khi sĩ quan tùy viên dịch xong những lời của thượng nghị sĩ, hết thảy những ông bà tây thuộc địa đang tụ họp lịch sự vỗ tay. Một người hầu An Nam lảng vảng gần đó từ lúc nào, bước ra tiến rượu sâm banh cho quan khách. Thống đốc lập tức nhướng cặp kính đeo mắt sang phía Flavia, hỏi han cặn kẽ về dòng họ Pháp của bà và sự “ kết hợp đáng kinh ngạc” giữa nhan sắc của bà với hai cậu con xinh đẹp. Lần đầu tiên ông mở miệng cười và nói:
- Bà Sherman ạ, tôi tin rằng bà chẳng dùng hết thời giờ của mình để đi săn. Nếu bà có dịp để mắt tới và tham dự một vài sinh hoạt chung nào đó của chúng tôi, sự có mặt của bà sẽ làm sôi nổi cuộc sống thuộc địa vốn quen nếp tù đọng này.
Flavia cười đáp trả rồi đưa mắt liếc Nathaniel thật lẹ. Thấy chồng đang mải mê chuyện trò với người tùy viên của thống đốc, bà mới để cho mình được phép thấp giọng tâm sự:
- Thưa ông, cuộc sống ở Virginia rất giới hạn. Các chân trời văn hoá và xã hội ở nơi đó quá chật hẹp, cũng vì thế từ lâu tôi mong ước có một chuyến đi như thế này. Joseph, đứa con trai thứ hai của tôi, rất quan tâm tới lịch sử, và chúng tôi sắp đi Huế để ngoạn cảnh chốn đế đô cùng quan chiêm đức vua cử hành lễ Tết cổ truyền.
Thống đốc mỉm cườøi thêm lần nữa:
- Như thế tôi hi vọng lại hân hạnh được gặp bà tại đất thần kinh cổ kính của các hoàng đế An Nam. Tôi cũng sẽ dự các nghi lễ đó trước khi lên nghỉ ngơi vài ngày ở khu nghỉ mát tại vùng đồi núi Đà Lạt.
Ngay lúc ấy, cảm giác có ánh mắt ai đang chạm vào người mình, bà vợ của thượng nghị sĩ vội vàng quay đầu lại. Bà bắt gặp một người đàn ông Pháp cao, mặt rắn rỏi, mặc áo vét trắng kiểu dùng dự tiệc chiều, đứng kế bên tùy viên của thống đốc, đang ngây người âm trầm ngắm bà. Vì Flavia bất thần quay lại nên hắn sửng sờ, mất cảnh giác về sự thiếu ý tứ trong việc chiêm ngưỡng thân xác của người khác. Nhưng cái nhìn chằm chặp u ẩn và lặng lờ của hắn giữ bà đứng yên cho tới khi bà xoay người nhìn qua chỗ khác. Người tùy viên của thống đốc vốn đã để ý khi Flavia quay lại, thấy đây là cơ hội cho mình mở lời đưa người Pháp thầm lặng này tham dự vào nhóm:
- Thưa Thượng nghị sĩ Sherman và phu nhân, tôi xin phép giới thiệu kẻ sẽ làm người hướng dẫn và cố vấn đầy kinh nghiệm của quí vị trong rừng thẳm nhiệt đới này, Monsieur Jacques Devraux. Ông Jacques Devraux trước đây làm sĩ quan trong binh chủng Bộ Binh Thuộc Địa nhưng lúc này ông là một nhà săn bắn rất mạo hiểm và thành công nhất của chúng tôi.
Trong khi nắn rất lẹ các ngón tay của Flavia, Jacques Devraux vội vàng cúi chiếc đầu đen sẩm lên bàn tay bà. Flavia cảm giác môi hắn lướùt nhẹ trên da mình và nghe hắn thì thầm: “Hân hạnh”. Nhưng trước khi quay sang chào thượïng nghị sĩ, hắn không nhìn bà thêm lần nào. Nathaniel Sherman nói lớn, niềm nở chào người Pháp ấy bằng cái bắt tay thật chặt và nồng nhiệt:
- Rất mừng được gặp ông, Monsieur Devraux. Chúng ta có nhiều điều cần thảo luận với nhau. Theo ý ông, sớm nhất là chừng nào chúng ta sắm đủ đồ trang bị? Và khi nào chúng ta có thể nghĩ tới chuyện lên đường?
Thống đốc nhướng đôi lông mày rậm lên nhìn Flavia Sherman, tỏ vẻ thiện cảm trong khi chồng bà bắt đầu thảo luận chi tiết các kế hoạch đi săn. Nâng nhẹ khuỷu tay của Flavia, thống đốc đưa bà đi về phía đám đông đang chờ đợi, và bắt đầu giới thiệu bà.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:00 AM
Cả hai vừa đi, một người hầu An Nam chợt thầm lặng xuất hiện kế bên Joseph Sherman, đưa cho cậu ly sâm-banh khác. Cậu bé Mỹ nhìn xuống chiếc ly rỗng trên tay mình do cậu vừa bộp chộp uống ực một hơi, rồi ngó mông lung bóng dáng mẹ đang nhanh chóng biến mất trong đám đông. Trước khi cả gia đình rời khách sạn, mẹ đã căn dặn cậu không được phép uống quá một ly, còn Chuck anh cậu, không bị sự cấm đoán ấy ràng buộc. Chuck đang vừa nhấm nháp ly rượu thứ hai một cách tự tin vừa nhìn Joseph và nở nụ cười hiền hậu trước vẻ tần ngần của em:
- Ngó như thể má mình chơi trội hơn em. Nói tóm lại, bà là người đẹp thật sự của buổi dạ vũ này chứ chưa phải em. Thôi thì làm một ly nữa cho nguôi sầu hận — ông anh này gánh trách nhiệm cho.
Trợn mắt làm bộ tịch dữ dằn chế nhạo lại anh, Joseph cầm thêm một ly. Lần này thận trọng hơn, cậu nhắp từng chút một. Lúc ấy, một cậu trai Pháp tóc đen tuổi chừng mười tám, vừa cười toe toét đi tới phía hai anh em vừa chìa bàn tay:
- Xin chào nhị vị, tôi là Paul Devraux. Tôi phụ việc cho ba tôi và tôi lấy làm sung sướng được biết các anh nói rất giỏi tiếng Pháp. Cho tới nay tôi chỉ học lóm được có mấy câu tiếng Anh, thí dụ như: “Cô ơi mặt cô đẹp tuyệt vời đấyï!”... “‘Cô có chịu lên giường với tôi không ạ?”... “Anh yêu em cực kỳ em ơi!”... Và tôi thấy giữa nhị vị và tôi, không việc gì phải dùng tới mấy câu đại loại như thế!
Hai anh em rộ lên cười vì những câu tiếng Anh đưa ra có ý chọc cười ấy. Cả ba vui vẻ bắt tay nhau. Vóc dáng của Paul Devraux rất giống cha chỉ trừ đôi mắt sẩm màu long lanh tinh quái trên khuôn mặt rám nắng và khắp người toát ra vẻ dí dỏm, ưa bỡn cợt.
Nghiêng mình đầy tự tin về phía hai anh em, Paul nói:
- Tôi hy vọng các anh thưởng thức bài diễn văn của thống đốc chúng tôi. Nhưng chớ tin hết thảy những gì ông ấy nói. Một số người quả quyết rằng thực tế chẳng có chút nào gọi là “sứ mạng khai hóa” trong mọi việc người Pháp đang tiến hành ở đây. Các anh thấy, trước khi chúng tôi đến đây thì tại xứ thuộc địa này chẳng có nhà thổ nào — nhưng ngày nay thành phố nào cũng tổ chức thi đủ loại hoa hậu, thực tế là tuyển lựa mỹ nữ cho các quan chức. Vậy có lẽ đúng ra nên gọi là “sứ mạng giang mai hoá”, phải không?
Chuck không nín nổi, bật cười ha hả. Joseph cũng cười nhưng hơi bứt rứt tự hỏi chẳng biết mình có hiểu đúng ý sự hài hước ngược ngạo của cậu trai Pháp không. Dứt tiếng cười, Chuck xuống giọng góp ý và dò hỏi:
- Thế thì đúng ngay chóc Paul ạ. Còn một điều chúng tôi từng nghe nói về đàn ông Pháp thì sao: rằng hết thảy họ đều là kẻ điên cuồng sinh lý?
Paul lập tức tỏ vẻ bị xúc phạm:
- Cái đó chắc chắn không đúng! Chỉ hầu hết chúng tôi là bị điên cuồng sinh lý thôi!
Cậu cười, vân vê một bên chốt ria mép màu đen với dáng điệu ta đây hiên ngang, làm hai cậu trai Mỹ lại bật lên cười. Chuck nói:
- Qua những gì chúng tôi vừa thấy dọc đường tối nay, tôi phải nói rằng đàn bà con gái xứ này hình như không dễ xáp vô dù họ trông có vẻ bắt mắt trong bộ quần áo lụa nhỏ nhắn và hấp dẫn.
Cậu trai Pháp nói, lại xoắn chốt ria mạnh hơn nữa:
- Cực kỳ chí lý đấy, anh bạn. Họ không sẵn lòng chút nào. Anh thấy, giai cấp quan lại phẩm cách rất nghiêm khắc. Khi một thiếu nữ An Nam kết hôn, đêm đầu tiên trong tuần trăng mật, người chồng trải một vuông lụa trắng như tuyết ra giữa giường. Nếu cô dâu không vượt qua nổi cuộc thử nghiệm đó thì hắn được phép đuổi tân nương dọn đồ đạc trở về nhà gái, và hắn công khai tuyên bố lý do.
- Thế thì làm thế nào tất cả những người Pháp điên cuồng sinh lý của anh giữ được sức khoẻ của mình?
Paul nói và đưa ngón tay lên giảng giải:
- A! Rõ ràng là anh không nghe nói tới một chế độ cao quí và trang nhã là “con gái”.
Chuck thừa nhận:
- Không. Tôi chưa nghe. “Con gái” là gì vậy?
- “Con gái” là đầy tớ gái, chị em của các đầy tớ trai, các cậu bồi chú bếp — hoặc đôi khi thậm chí là vợ của hắn. Hầu hết là những thiếu nữ từ nhà quê lên.
Paul vừa nói vừa đưa tay hoa một vòng về phía những người còn lại trong phòng:
- Thấy không, tại xứ thuộc địa này có quá ít các bà vợ. Hầu hết tây thuộc địa người Pháp chúng tôi tới đây một mình — vì “con gái”. Đó là lý do hiện có tới bốn chục ngàn “con lai” tại một xứ thuộc địa như thế này.
Joseph lật đật hỏi, lo lắng sợ mình bị gạt ra bên lề cuộc nói chuyện hấp dẫn của người lớn:
- Con lai? Là cái gì vậy?
- Người pha tạp chủng tộc, ông bạn ạ — nửa Pháp nửa An Nam. Chúng tôi gọi bằng tiếng Pháp là đầu gà đít vịt, chẳng phải giống này cũng chẳng phải giống kia. Khi tây thuộc địa người Pháp chúng tôi hồi hương, bọn chúng bị bỏ lại. Nếu may mắn, “con gái” ấy và những “con lai“ của bà ta sẽ được bàn giao cho người sẽ tới tiếp quản ngôi nhà đó, tính chung một thể với đồ đạc trong nhà. Nếu không, thê thảm hết chỗ nói, không ai ngó ngàng tới họ. “Đời thuộc địa là thế!” người ta chỉ nói vậy thôi rồi nhún vai.
Chuck cười cười, đế vào:
- Nhưng tôi dám cá rằng chắc chắn mẹ anh giữ riết anh, không cho anh tới gần “con gái”.
Giọng trầm hẳn, cậu trai Pháp nói:
- Chẳng may má tôi qua đời rồi. Bà bị chết bốn năm trước, trong một tai nạn sông nước.
Chuck vội vàng nhẹ giọng:
- Tôi thành thật xin lỗi.
Cậu trai Pháp phất tay xua lời xin lỗi của Chuck:
- Nhưng dù trường hợp nào đi nữa tôi cũng không trọng nễ bất cứ kẻ nào trong đồng bào tôi có hành động đối xử tệ bạc với “con gái” An Nam. Tôi tới Sài Gòn cách đây tám năm, lúc ba tôi còn ở trong quân đội. Sau ngày má tôi qua đời, ông quyết định lưu lại đây thêm một thời gian, kiếm sống bằng nghề săn bắn, nên ở đây tôi lớn lên chung với con trai và con gái An Nam cùng lứa tuổi. Có thể tôi có quan điểm khác với thế hệ lớn tuổi hơn tôi.
Đột nhiên Joseph kéo mạnh tay áo anh mình, đưa cằm về phía đằng kia phòng:
- Anh Chuck, nhìn kìa, có cái ông anh em mình mới gặp trên đường phố...
Nhìn theo em, Chuck thấy gã đàn ông Pháp khòm lưng, càm ràm hai anh em bằng tiếng Anh hồi chiều. Ăn vận giống mọi tây thuộc địa khác, hắn đang trò chuyện với một người đàn ông mặt xanh mét, vàng vọt, nhỏ con hơn và mắt cũng thâm quầng y hệt hắn. Joseph quay sang Paul Devraux, giải thích:
- Chúng tôi thấy có vài tù nhân bị đánh đập nhưng ông ấy nói với chúng tôi rằng chớ thương hại họ. Ông ấy nói hết thảy người An Nam đều lười biếng, vô tích sự.
Liếc thật lẹ người đó, cậu trai Pháp nhún vai:
- Ông ta và bạn của ông ta là đại diện điển hình cho tầng lớp vệ binh cũ. Có thấy quầng thâm nơi mé dưới con mắt họ không? Chắc chắn đó là dấu hiệu của người nghiện á phiện. Tôi đã từng gặp “ông bạn” ấy của các anh — quần áo ông ta lúc nào cũng mốc meo mùi khói. Tôi đoán chừng ông ta làm thanh tra hầm mỏ hoặc một nghề đại loại như vậy.
Paul Devraux thấp giọng, nghiêng mình về phía hai cậu trai Mỹ:
- Và ngẫu nhiên á phiện chưa phải là thói xấu độc nhất của cặp bài trùng đó. Sau khi rời chỗ này có lẽ họ sẽ đi bộ dọc đường Catinat, ra tận bờ sông. Nếu có dịp dạo chơi trên kè đá trước mặt tiệm cà phê La Rotonde, các anh sẽ thấy có những cậu bé An Nam nghèo cực mặt bôi bột gạo trắng, lượn tới lượn lui để phục vụ cho hạng người như hai “ông bạn” ấy. Hoặc cả hai sẽ gọi phu xe trẻ tuổi kéo họ chạy lòng vòng suốt đêm, để ngắm cái mông đít nhỏ xíu và vàng khè của anh ta nhô lên hụp xuống trước con mắt thèm thuồng của họ — và sẽ đánh đập anh ta nếu anh ta không chịu để yên cho họ làm tới.
Cậu trai Pháp đột nhiên bỉu môi tỏ vẻ kinh tởm:
- Loại người như vậy rất thường thấy ở đây. Người từ nước Pháp tới thuộc địa không phải bao giờ phẩm chất cũng hạng nhất. Thôi, đừng nói thêm về họ nữa.
Chuck nhấp sâm banh, nhìn quanh các nhóm nhỏ người An Nam đang có khuynh hướng càng lúc càng co cụm vào nhau trong khi tiếng chuyện trò rì rào của người Pháp chung quanh họ mỗi lúc một thêm rôm rả. Cậu hạ giọng:
- Vậy anh kể cho chúng tôi nghe thêm đôi chút về người bản xứ. Những vị phương đông mắt xếch đang có mặt giữa chúng ta, mặc áo thụng bằng lụa hoa hoè và đội những chiếc mão buồn cười ấy, chính xác họ là ai vậy?
- Chúng tôi gọi họ là những “kẻ hợp tác”. Còn người An Nam không muốn dính dáng gì tới người Pháp thì gọi họ là “quân ăn cướp có môn bài”.
Joseph ngập ngừng hỏi với nụ cười hoang mang:
- Tại sao lại “quân ăn cướp có môn bài”?
- Sáu chục năm trước, khi các chiến thuyền hùng mạnh của người Pháp chúng tôi dong buồm tới đây, giới trí thức lớn tuổi của xứ An Nam này bất hợp tác với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất xảo quyệt: chúng tôi mua lòng trung thành. Quan lại cấp thấp nào chịu đồng ý làm việc cho chúng tôi, như làm thông ngôn chẳng hạn, thì được ban thưởng các vùng đất rộng mênh mông có đồng ruộng phì nhiêu ở đồng bằng sông Cửu Long. Dần dà ý tưởng đó tự nhiên biến thành một lối trả công cho sự tích cực hợp tác trong nhiều lãnh vực, đặc biệt quân sự và hành chánh. Trải qua nhiều năm, các gia đình “kẻ hợp tác” ấy trở thành cự phú. Vì họ là những người trung thành, chúng tôi giúp họ mở rộng thêm ruộng đất. Rồi họ lại cho chính nông dân sống tại chỗ thuê lại ruộng đất đó với giá cắt cổ — đó là lý do tại sao dân chúng An Nam gọi họ là quân được cấp giấy phép ăn cướp thường trực.
Paul Devraux ngưng một chút rồi hất hàm về phía đằng kia phòng:
- Thí dụ trường hợp gia đình họ Trần đằng kia, kẻ vừa được giới thiệu với thân phụ của hai anh. Họ là những đại địa chủ — tài sản có thể đáng giá tới mấy triệu bạc Đông Dương.
Hai anh em Sherman quay mặt nhìn, thấy thống đốc và cha mình đang trò chuyện với một người An Nam già. Người ấy dưới cằm có chòm râu bạc và dài, đầu đội mũ cánh chuồn kiểu đời Minh, mình mặc áo bào thêu bằng lụa lấp lánh màu xanh nước biển. Họ để ý thấy ông ta cứ cúi mặt, giữ mãi hai bàn tay thụt sâu trong ống tay áo dài thườn thượt, rộng thùng thình và hiếm khi ngước lên nhìn thẳng mặt thống đốc hoặc thượng nghị sĩ. Đứng bên ông, một người An Nam trung niên mặc áo quan thụng màu đậm hơn, vẻ mặt cẩn trọng, đang theo dõi cuộc trò chuyện. Paul cắt nghĩa:
- Người An Nam có vẻ đáng kính với chòm râu dài và bạc ấy là một người lanh lợi khác thường. Ông ta có mặt thường trực ở Sài Gòn tuy vẫn giữ chức thượng quan tại triều đình Huế. Theo tôi, gia đình này có gốc gác Trung kỳ nhưng Trần Văn Hiếu, con trai của ông ta — người mặc áo thụng màu đậm hơn đó — sống tại Sài Gòn và làm quan sứ thần của nhà vua tại Nam Kỳ. Điều đó cho phép ông ta đích thân trông coi hết thảy ruộng đất mênh mông của gia đình mình ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Và bằng cách ấy, gia đình này giữ vững chân đứng ở cả hai phía.
Chuck nói châm biếm:
- Họ có vẻ chẳng giống chút nào các tay triệu phú hãnh tiến người Mỹ.
Paul Devraux cười không một tí hài hước:
- Thật chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Họ đang đứng trước mặt những người kẻ quyền cao chức trọng của chủng tộc chủ nhân, phải không? Chính phủ Pháp gần như không cho phép người An Nam góp chút ý kiến nào vào sự cai quản công việc của người Pháp ở đây. Bên dưới cái bề mặt “khai hóa” này, có vô số bất mãn.
Joseph ngạc nhiên, thắc mắc:
- Nhưng cái gì xảy tới cho toàn bộ nguyên tắc “tự do, bình đẳng và bác ái” lừng danh của người Pháp mà vì chúng quí vị đã đấu tranh cách mạng? Những chữ đó hoàn toàn không áp dụng chút nào ở đây sao?
Paul Devraux nhếch mép cười trống rỗng, không trả lời. Nhìn lên, cậu thấy thượng nghị sĩ đang ra hiệu cho hai con trai tới tham gia nhóm của ông. Paul nói đều giọng:
- Tôi nghĩ thượng nghị sĩ đang muốn hai anh gặp mặt mấy ông quan An Nam. Các anh nên tới đó ngay thì tốt hơn.
- Nhưng còn câu trả lời cho thắc mắc của tôi thì sao?
Lập tức Paul Devraux nhe răng cười trước khi nhướng cặp lông mày ngổ ngáo:
- Joseph ạ, chẳng may “bình đẳng và bác ái” bị bỏ lại bên chính quốc rồi. Còn tại các xứ thuộc địa của mình, nước Pháp dành quyền sử dụng bất cứ thứ “tự do” nào mà nó muốn.
Dream Of The Wind
04-02-2010, 10:02 AM
TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 5 -
Ngắm hai con, Nathaniel Sherman hãnh diện cười rạng rỡ khi hai cậu đi tới gia nhập nhóm người đang bao quanh thống đốc. Mắt thượng nghị sĩ nhìn vị quan già An Nam có bộ mặt nhăn nheo, giọng ông nghe rền vẻ sảng khoái khi nói cho người tùy viên của thống đốc thông dịch:
- Messieurs, tôi xin hân hạnh giới thiệu hai con trai của tôi. Đứa lớn, Charles, và em nó, Joseph...
Tiếp đó, để lấy cảm tình cho con trai, ông quay sang hai cậu, trân trọng nói tiếp:
- Monsieur Trần Văn Lung đây là thượng quan Bộ Lễ của triều đình Huế.
Joseph hoan hỉ rướn người tới chực bắt tay nhưng vị quan già, sau một thoáng bối rối ngại ngần, ấp lòng bàn tay phải của ông lên nắm tay trái, vái nhẹ một lần trước khi rụt cả hai bàn tay vào ống tay áo bào, và cúi đầu chào Chuck rồi chào Joseph. Lúc ấy, cậu bé Mỹ mới để ý thấy các móng tay rất dài của ông cong vòng khác thường; chúng biểu hiệu cho giai tầng sĩ phu và địa vị mệnh quan triều đình, khiến không tiện bắt tay chào nhau theo lối phương tây, và thường gây bối rối cho cả đôi bên. Mặt ửng đỏ, Joseph cúi đầu chào rồi ngẩng lên ngay. Cậu nhận thấy anh mình cũng làm y vậy nhưng chậm rải và có ý tứ hơn.
Thống đốc oang oang giải thích, làm như thể vị quan già lẫn người con trai của ông ta không hiểu:
- Người An Nam không bao giờ bắt tay nhau. Giữa người đồng đẳng họ chỉ cúi mình, để xuôi hai tay. Hình thức chào cổ truyền quí vị vừa thấy...
Ông dừng một chút, đưa bàn tay trái của mình chụp lên nắm tay phải, bắt chước điệu bộ vừa rồi của người An Nam, và tiếp:
- ... chỉ dùng để bày tỏ lòng tôn kính của kẻ dưới đối với bề trên.
Chưa nghe dứt lời dịch câu nói vô tình nhưng gây nhiều thương tổn ấy, Nathaniel vội đưa mắt liếc mấy người An Nam nhưng trên các bộ mặt trầm lặng ấy ông không dò được phản ứng nào. Tuy thế, thượng nghị sĩ tiếp lời ngay, vừa nói vừa nhoẻn miệng cười cực kỳ quyến rũ:
- Thưa quí vị, miền nam nước Mỹ, nơi tôi xuất thân, vô cùng hãnh diện về phong thái tốt đẹp của nó. Nhưng tôi nghĩ rằng hết thảy chúng tôi đây vẫn có nhiều điều phải học hỏi từ thế giới cổ kính của quí vị về sự tinh tế và lễ nghĩa.
Khi lời ấy vừa được thông ngôn, vị quan già khép mi mắt lại như thầm cảm tạ lời tán tụng của người Mỹ. Nhưng ông vẫn để nguyên nét mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào. Thống đốc nghe không rõ câu đáp trả ấy nên chẳng nhận ra ý vị chua cay của nó. Ông lơ đãng nghiêng người, xoè cả năm ngón tay tay vờn trước chiếc áo bào màu xanh nước biển của Trần Văn Lung:
- Thưa thượng nghị sĩ, hẳn ông sẽ lấy làm thú vị khi biết rằng chiếc áo thụng này được may suốt từ trên xuống dưới bằng chỉ một tấm lụa. Màu sắc và kiểu mẫu của nó quả thật rất hiếm. Nó là tặng phẩm do phụ vương hoàng đế Khải Định đương triều đặc cách khâm ban cho Trần Văn Lung.
Thống đốc khoa tay trước mặt vị quan An Nam như thể ông lão là vật trưng bày trong viện bảo tàng:
- Sát đường viền, ông có thể thấy một con rồng, loại rồng vua năm móng, thêu rất tinh xảo với các sợi chỉ toàn bằng vàng thật. Một công trình tuyệt tác. Chắc ông đồng ý với tôi rằng thế giới phải biết ơn sâu xa các dân tộc chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
- Thưa thống đốc, ông thật không sai chút nào. Riêng đối với Monsieur Trần Văn Lung đây có lẽ chúng ta cũng nên cám ơn ông ấy vì đã nhắc cho chúng ta nhớ mãi các giá trị chân chính, cao cả và bền vững của phương đông.
Trong một thoáng, thống đốc liếc người Mỹ với tia nhìn sắc lẻm nhưng khi ánh mắt ấy chỉ gặp nụ cười hóa giải của thượng nghị sĩ, ông lại bắt sang chuyện khác:
- Thưa thượng nghị sĩ, nhân nói về cái quí hiếm của phương đông, tôi xin trình diện ông bảo vật trân quí nhất trong bộ sưu tập đồ cổ Trung Hoa của tôi.
Chạm nhẹ khuỷu tay người Mỹ, ông bước tới phía có chiếc độc bình đời Minh bày trên mặt cái đôn bên cạnh:
- Nó có xuất xứ từ niên đại Vạn Lịch. Và tôi khá tự tin khi nói rằng trên khắp thế gian này nó là một trong hai kiểu mẫu loại đó còn nguyên vẹn.
Lối xử sự của thống đốc cho thấy ông chỉ muốn dành riêng sự mời mọc này cho người Mỹ thôi; vị quan già vẫn đứng yên tại chỗ với con trai với con dâu của ông. Chuck theo cha đi tới cạnh cái đôn bên trên đặt chiếc độc bình đời Minh cổ lớn, hoa văn gồm những con phụng xanh và các cánh sen, lộng lẫy sáng dưới ánh đèn từ trên chiếu thẳng xuống, còn Joseph có vẻ ái ngại.
Thấy mấy người An Nam bị bỏ rơi, cậu ở lại bên họ, lúng túng nhón hết chân này tới chân kia, cố vắt óc ra gợi chuyện. Phía trên chòm râu bạc lưa thưa, bộ mặt vị quan già An Nam vẫn tiếp tục không biểu lộ cảm xúc. Nãn lòng, Joseph đánh bạo quay sang người An Nam trẻ hơn. Chợt cậu nhận ra cả hai chưa được chính thức giới thiệu với nhau:
- Cháu là Joseph. Ông biết không, cháu mười lăm tuổi, thua anh Chuck của cháu sáu tuổi. Anh cháu hai mươi mốt. Ở nhà, cháu còn một đứa em gái. Nó tên Susannah... nó chỉ mới chín tuổi thôi...
Nhẹ nhỏm cả người vì đã kiếm ra lời mở chuyện, Joseph lắp bắp tuôn một hơi những cái vặt vảnh ấy của mình bằng thứ tiếng Pháp chưa thực hành, phát âm tiếng này va vấp tiếng nọ:
- Susannah nó nhỏ lắm, dĩ nhiên nó không chịu nổi chuyến đi xa như thế này. Nó phải ở lại nhà với cô út của cháu.
Hình như không hiểu Joseph nói gì, người An Nam già lúc này đưa mắt trống rỗng nhìn vào khoảng không trên đầu cậu rồi quay mình bỏ đi. Nhưng người con trai của ông nghiêm trang gật đầu:
- Tên tôi là Trần Văn Hiếu, và Monsieur Joseph ạ, thật đáng thương cho em gái của cậu là cô ấy không thể đi chung chuyến với cậu. Tôi chắc cô ấy nói tiếng Pháp giỏi không kém gì cậu, phải không?
Joseph cười:
- Chả người nào nói tiếng Pháp dở hơn cháu cả!
Tiếng cười của Joseph làm bà vợ vị quan trẻ mỉm cười khiến cậu dám đưa mắt nhìn rõ mặt bà. Mảnh mai và e lệ, bà mặc chiếc áo dài giản dị bằng lụa màu nâu làm đậm đà thêm vẻ đẹp đằm thắm trên khuôn mặt thanh tú màu vàng nhạt khiến người ta có ấn tượng không chính xác về số tuổi của bà. Joseph lễ phép hỏi để kéo bà vào cuộc trò chuyện:
- Thưa bà, bà có anh con trai chị con gái nào không ạ?
- Có monsieur ạ, hai trai một gái.
Joseph đưa mắt nhìn quanh phòng, hi vọng:
- Cả ba có ở đây không thưa bà?
Trần Văn Hiếu lắc đầu:
- Chúng nó còn nhỏ dại, không được dự vào những dịp cao trọng như thế này.
Ông hoa tay ra đằng sau, về phía một trong các cửa sổ kiểu Pháp nhìn xuống khu vườn hoa cân đối chung quanh dinh rồi nói:
- Chúng xin được tới xem “cung điện” của quan thống đốc nhưng chúng chỉ được ở ngoài vườn hoa với bà vú để khỏi phá phách.
Qua khung cửa sổ Joseph nhìn ra vườn, thấy có ba đứa trẻ An Nam mặc áo thụng cổ truyền bằng lụa như cha mẹ chúng, đang đi đi lại lại trên bãi cỏ phía dưới thềm cùng với người hầu An Nam mặc quần áo mộc mạc bằng vải trơn. Joseph ngập ngừng rồi cười:
- Thưa ông bà, cháu có thể gặp chúng không ạ? Ông bà thấy đó, cháu không được phép uống thêm sâm-banh nữa. Mẹ cháu bắt cháu hứa chỉ được uống một ly thôi — mà cháu đã uống tới hai ly.
Lúc này, ông quan An Nam nhìn vẻ mặt hăm hở của Joseph rồi ánh mắt không còn vẻ dè dặt như lúc mới gặp. Ông mỉm cười và nói: “Sao lại không?” Quay sang bà vợ lúc này cũng đang mỉm cười, Trần Văn Hiếu lặp lại: “Sao lại không?” và dẫn đường đi men theo các cửa sổ kiểu Pháp. Ra tới bên ngoài hành lang, ông đưa tay vẫy các con. Trong chớp mắt, chúng chạy như bay tới đứng trên tầng cấp cao nhất của bậc thềm bằng đá cẩm thạch, hụt hơi thở hổn hển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét