NHỮNG CHƯƠNG BỊ KIỂM DUYỆT BỎ CỦA HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - 1
Xuân Nguyên7:23 AM
Hồi ký Nguyễn Hiến Lê
(Giới thiệu những chương bị cắt bỏ khi in tại Việt Nam)
.
.
Nguyễn Hiến Lê (1912–1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế,...
Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Sau ngày 30/4 năm 1975, ông vẫn ở lại trong nước mà không chọn cách đi ra khỏi đất Việt, mặc dù ông cũng có điều kiện thực hiện việc đó. Lúc đầu, Ông cũng có cảm tình với "quân giải phóng", với Việt cộng. Nhưng chỉ sau môt thời gian ngắn ngủi, ông đã nhận ra nhiều điều và gửi gắm ít nhiều trong cuốn Hồi Ký của ông. Cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê đã được tái bản tại Việt Nam tới ngót 30 lần. Nhưng có 6 chương và nhiều đoạn bị cắt bỏ khi in tại Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thống nhất Bắc - Nam, chúng tôi đăng tải lại 6 chương Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê để chúng ta cùng hiểu tấm lòng, nhân cách và trí tuệ của một học giả uyên bác và có nhãn quan xa rộng, trong một cách nhìn độc lập và khách quan. (Tham khảo Wikipedia)
Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
Sau ngày 30/4 năm 1975, ông vẫn ở lại trong nước mà không chọn cách đi ra khỏi đất Việt, mặc dù ông cũng có điều kiện thực hiện việc đó. Lúc đầu, Ông cũng có cảm tình với "quân giải phóng", với Việt cộng. Nhưng chỉ sau môt thời gian ngắn ngủi, ông đã nhận ra nhiều điều và gửi gắm ít nhiều trong cuốn Hồi Ký của ông. Cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê đã được tái bản tại Việt Nam tới ngót 30 lần. Nhưng có 6 chương và nhiều đoạn bị cắt bỏ khi in tại Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thống nhất Bắc - Nam, chúng tôi đăng tải lại 6 chương Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê để chúng ta cùng hiểu tấm lòng, nhân cách và trí tuệ của một học giả uyên bác và có nhãn quan xa rộng, trong một cách nhìn độc lập và khách quan. (Tham khảo Wikipedia)
Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965)
A. Miền Nam Gia đình Ngô Đình Diệm
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Chính sách nhà Ngô
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
B. Miền Bắc Pháp mất hết quyền lợi
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Kinh tế phát triển rất chậm
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
A. Miền Nam Gia đình Ngô Đình Diệm
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Chính sách nhà Ngô
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
B. Miền Bắc Pháp mất hết quyền lợi
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Kinh tế phát triển rất chậm
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Chương XXI: Việt Nam Chia Hai
Chủ ý tôi là viết về gía đình và đời viết văn của tôi, nhưng không thề bỏ qua thời đại được, cho nên phải xen vài chương ngắn về chiến tranh độc lập và tình hình xã hội. Trong chương này và chương sau tôi sẽ ghi vài nét chính về chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình, tức chiến tranh Việt-Mĩ. Về chiến tranh Việt-Pháp tôi có được tạm đủ tài liệu (đã kê ở cuối chương XIX), về chiến tranh Việt-Mĩ, trái lại tôi chỉ có ba cuốn:
- Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)
- Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)
- La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)
Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.
A- Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).
Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.
Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.
Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:
- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.
Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.
Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.
Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?
Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.
Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.
Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.
Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.
*
Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.
Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.
Chính sách nhà Ngô
Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là
• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.
• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.
Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.
Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.
Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.
Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)
Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)
Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.
Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.
Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.
Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.
Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.
Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.
Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.
- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.
- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.
Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.
Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.
Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc
Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.
Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.
Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.
Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.
Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.
Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.
Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.
Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.
Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.
Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,
Bài thứ nhất:
Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.
Bài thứ nhì:
Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.
- Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)
- Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)
- La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)
Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.
A- Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).
Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.
Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.
Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:
- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.
Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.
Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.
Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?
Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.
Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.
Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.
Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.
*
Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.
Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.
Chính sách nhà Ngô
Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là
• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.
• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.
Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.
Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.
Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.
Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)
Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)
Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.
Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.
Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.
Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.
Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.
Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.
Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.
- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.
- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.
Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.
Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.
Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc
Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.
Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.
Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.
Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.
Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.
Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.
Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.
Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.
Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.
Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,
Bài thứ nhất:
Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.
Bài thứ nhì:
Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.
B- Miền Bắc
Pháp mất hết quyền lợi
Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.
Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.
Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...
Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:
• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.
• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.
• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.
Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.
Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.
Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.
Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.
Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).
Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.
• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.
• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...
• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.
Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.
Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.
Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.
Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...
Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.
Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.
Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...
Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...
Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.
Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.
Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.
Kinh tế phát triển rất chậm
Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!
Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.
Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.
Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:
• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,
• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,
• thi hành tự do dân chủ,
• thả tất cả tù nhân chính trị,
• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,
• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.
Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.
Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.
Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.
Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
Pháp mất hết quyền lợi
Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.
Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.
Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...
Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:
• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.
• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.
• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.
Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.
Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.
Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.
Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.
Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).
Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.
• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.
• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...
• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.
Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.
Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.
Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.
Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...
Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.
Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.
Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...
Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...
Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.
Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.
Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.
Kinh tế phát triển rất chậm
Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!
Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.
Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.
Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:
• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,
• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,
• thi hành tự do dân chủ,
• thả tất cả tù nhân chính trị,
• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,
• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.
Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.
Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.
Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.
Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
Chú thích:
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.
[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- có 893.291 buổi dậy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.
[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.
[4] Năm 1981, ông được bầu làm chủ tịch nhà nước.
[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét