Bài đăng nổi bật

Nhân sự chủ chốt cấp cao

  Nhân sự chủ chốt cấp cao. BCT đã có phương án chính thức về nhân sự chủ chốt trình trung ương đảng, dự kiến trung ương họp vào ngày 16-18 ...

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Đôi điều về ông Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải

Đôi điều về ông Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải

bauxitevnSun 4:40 AM


Mi Lâm

Ông vốn là một nhân viên kế toán. Sau này do năng động, hoạt ngôn cộng những tài năng thiên phú khác ông được thăng chức dần dần, cuối cùng cũng được lên Bộ trưởng.

Ngay khi mới nhậm chức, ông đã tuyên ngôn:

"Bộ trưởng là tư lệnh lĩnh vực ngành phải cho tôi toàn quyền. Tư lệnh ra chiến trường phải được toàn quyền quyết định chiến đấu, tiến hay lùi, nếu chờ xin phép thủ trưởng ở nhà thì sẽ lỡ cơ hội".


Trong quân đội, nếu là Tư lệnh một Quân khu, Quân đoàn hay Quân Binh chủng, quân hàm của Tư lệnh thường là Tướng. Nếu hiểu khái niệm "chiến trường" là "tiền tuyến" là nơi tuyến đầu có nhiều gian khổ, thậm chí giao tranh đổ máu kiểu "em hậu phương còn anh nơi tiền tuyến" thì không hiểu khái niệm "hậu phương" của chiến trường "ngành" ông để ở đâu, vì chiến trường của ông chính là những con đường, có lẽ để đảm bảo vai trò Tư lệnh của mình mà sau này ông thường xuyên ở ngoài đường. Nhưng việc quân khác với việc quan. Trong việc quân thời xưa, tướng ngoài biên ải khi có trong tay thượng phương bảo kiếm có quyền "tiền trảm hậu tấu", nhưng tuyệt đối không được trái mệnh triều đình. Thêm nữa là cái quyền đó chỉ tồn tại trong một vài tình huống cấp bách chứ không thể vượt ra ngoài sự kiểm soát của Thống soái Tổng tư lệnh hoặc Vua. Ông đưa ra khái niệm “tư lệnh ra chiến trường phải được toàn quyền quyết định” để đánh tráo với khái niệm “tiền trảm hậu tấu”, lấy cái “hữu hạn” để che đậy cho cái “vô hạn” vô hình trung đã tự tạo cho mình một cái quyền định đoạt tất cả mọi thứ trong ngành của mình, một ngành vốn liên quan đến rất nhiều ngành khác. Ông lẩn việc quan vào với việc quân, là QUAN nhưng lại muốn làm QUÂN, từ chức danh Bộ trưởng ông phong cho mình quân hàm của một vị Tướng, là Tư lệnh hẳn một ngành quan trọng, có thể quyết định vận mệnh của CBNV trong ngành và có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống của người dân cả nước.

Ông vùng vằng “phải cho tôi toàn quyền” xong thì bắt tay vào việc. Ông tuyên bố sẽ tập trung giải quyết ba khâu đột phá chiến lược. Thứ nhất là đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, thứ hai là tình trạng tai nạn giao thông, thứ ba là ùn tắc giao thông.

Đầu tháng 10/2011: Đề xuất tiêu hủy xe đua.

17/10/2011: Ban hành công văn quy định "các đồng chí lãnh đạo thuộc diện bộ quản lý từ cấp vụ và tương đương trở lên không chơi gôn, không tổ chức hoặc tham gia các giải gôn".

Tháng 10/2011: Ban hành công văn ghi rõ: "yêu cầu cán bộ công nhân viên chức trong cơ quan, đơn vị sử dụngxe buýt đô thị tối thiểu 1 ngày trong 1 tuần. Định kỳ báo cáo (trước ngày 25 hàng tháng) tình hình triển khai thực hiện". Sau đó 2 tháng sau khi đi thử xe buýt công cộng, ông cho biết: "Thực tế, với tình hình chất lượng xe buýt như hiện nay thì đến tôi còn chẳng thể đi nổi, làm sao mà bắt buộc anh em phải đi được".

Thay đổi giờ làm việc công sở và giờ học, thí điểm tại HN và HCM, trong đó học sinh đi học từ 7h sáng đến 7h tối, áp dụng từ 01/2/2012.

Tháng 11/2011: Đề xuất hạn chế xe cá nhân và tăng phí lưu thông ô tô và xe máy. Lập Quỹ bảo trì đường bộ.

Tháng 3/2014 ban hành 12 điều cấm BQLDA và công chức trực thuộc không được làm.

Năm 2014 sau thảm họa sập cầu Chu Va, lập đề án xây dựng 482 cây cầu treo và 3.664 cầu cứng trên cả nước. Trong đó 188 cầu treo sẽ hoàn thành trước tháng 7/2015.

Mùng 2 tháng 9 năm 2014 đu dây xuống vực Sapa chỉ đạo tại chỗ công tác cứu nạn.

Tháng 1/2015 mắng nhà thầu Trung Quốc vì gây tai nạn.

Tháng 4/2015 cấm CBNV uống bia rượu trước và trong giờ làm việc, kể cả hội họp tiếp khách.

Có nhiều đề xuất liên quan đến việc bán các tài sản của nhà nước do ngành quản lý ví dụ bán trụ sở Bộ GTVT, bán đường cao tốc, bán cảng biển, cảng hàng không, … 

Đề xuất xây dựng sân bay Long Thành với 100 triệu khách/năm, đầu tư 15,8 tỷ USD.

Có nhiều chuyến đi khắp các con đường trên cả nước, thực hiện nhiều vụ “trảm” nhà thầu, “trảm” cán bộ thuộc Ban Quản lý dưới quyền.

Còn rất nhiều việc ông đã làm được nữa, nhiều không kể xiết.

Càng ngày thấy ông càng nổi tiếng, được lòng dân, càng bảnh bao chải chuốt. 
Càng nhìn những việc ông làm càng thấy quyền của ông ghê gớm, bao trùm không chỉ một ngành mà thậm chí còn rất nhiều ngành.

Chỉ có điều những mục tiêu “đột phá chiến lược” trong gần 4 năm qua cũng chưa có gì chuyển biến lớn. Dấu ấn thực sự của ông chỉ nằm ở những cây cầu vượt trong nội thành Hà Nội.

Ông vẫn còn tuổi, vẫn còn cơ hội tiếp tục phát triển đi lên. Nghĩa là ở ông vẫn còn nói được chữ “tương lai”.

Tương lai của ông cũng như tương lai của tôi, đều nằm trong tương lai của đất nước.

Mạnh mẽ, quyết đoán, thậm chí quyết liệt, là những điều người đời nói về ông, nhưng cũng xin ông nhìn lại một chút về quá khứ sau lưng, để thấy rằng không phải quyết định nào của ông đưa ra cũng là hợp lý. Tất nhiên, sai thì sửa, nhưng cũng có những cái không bao giờ có cơ hội để sửa chữa. Ông hãy là một vị quan thanh liêm trị dân trị nước chứ đừng nên là một quân nhân, nữa là một vị tướng, một vị Tư lệnh, vì hình như ông không hiểu hết sự “nhanh – chậm” ở cuộc đời.
Ông cũng không hiểu hết rằng sự tiến hay lùi, nhanh hay chậm của một vị tướng là những việc phải được cân nhắc kỹ càng, vì liên quan đến sinh mạng của cả đạo quân, liên quan đến cục diện chiến trường, chứ không chỉ là việc phải “xin phép thủ trưởng”.

Dẫu gì, tôi vẫn tin ông còn có tương lai.

Tháng 3/2015

M.L.

Tác giả gửi BVN

Vì sao các tướng Công an không ủng hộ việc bổ sung quyền im lặng?

Vì sao các tướng Công an không ủng hộ việc bổ sung quyền im lặng?

bauxitevnSun 4:32 AM


Anh Vũ, thông tín viên RFA 
2015-05-29 
“Với tư cách là một người Luật sư tôi cho rằng cần thiết phải đưa quyền im lặng của bị can, bị cáo bổ sung trong Bộ Luật tố tụng Hình sự và họ có quyền im lặng cho tới lúc có Luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ. Tuy nhiên có nhiều nguy cơ quyền im lặng sẽ không được bổ sung trong Bộ Luật tố tụng Hình sự mới. Đó là một điều đáng thất vọng và cũng đáng thất vọng vì có một số những người có chức vụ quyền hạn lại có các phát biểu mang tính chất kém hiểu biết” – LS Trần Thu Nam.
LS Trần Thu Nam nói quá đúng, rằng nếu không bổ sung “Quyền im lặng” vào Bộ luật Tố tụng hình sự của Việt Nam thì thật là đáng thất vọng cho luật pháp của một nước vốn đang là thành viên Hội đồng Nhân quyền của LHQ hiện nay. Nhưng còn nhiều điều đáng thất vọng hơn nữa kia thưa ông Nam, ví như vì sao mấy vị tướng CA đứng đầu các cơ quan hành pháp mà lại ngang nhiên vào ngồi chĩnh chiện trong cơ quan lập pháp là Quốc hội và bàn cãi hăng thế nhỉ? Không có tam quyền phân lập thì dẫu có bổ sung “Quyền im lặng” đi nữa, LS thử nghĩ xem, quyền ấy có được thực thi đúng với tính chất của nó hay không? Ai chứ chúng tôi thì chưa dám tin rằng những vụ bạo hành làm thiệt mạng rất nhiều người dân vô tội tại các đồn công an sẽ không còn.
Bauxite Việt Nam



Một phiên họp Quốc hội Việt Nam, ảnh minh họa. AFP 
Những ngày vừa qua, Quốc hội đã thảo luận dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), tuy nhiên các ĐBQH là tướng công an đều không muốn quy định “quyền im lặng” được bổ sung trong bộ luật này. Tại sao lại có hiện tượng như vậy?
Phương tiện hạn chế bức cung
Tình trạng bức cung, dùng nhục hình của các điều tra viên đã dẫn tới việc có rất nhiều bản án oan sai, đã trở thành hiện tượng phổ biến trong lĩnh vực tư pháp của VN.
Quyền im lặng này nó xuất phát từ một quyền cơ bản của con người, đó là quyền của người bị tình nghi là tội phạm hay người là bị can, bị cáo phải nhận được sự trợ giúp pháp lý ngay từ đầu - LS Phan Trung Hoài
Quyền im lặng là một phương tiện quan trọng để hạn chế bức cung, nhục hình - nguyên nhân dẫn đến oan sai trong tố tụng hình sự.
Quyền im lặng là quyền của nghi phạm, của người bị kháng cáo, trong một vụ án có quyền im lặng cho tới khi được tiếp xúc với Luật sư hỗ trợ về pháp lý cho mình.
Nói về ý nghĩa của việc bổ sung quyền im lặng của bị can, bị cáo trong Bộ luật TTHS (sửa đổi), từ Sài Gòn LS. Phan Trung Hoài thuộc Đoàn LSVN giải thích:
“Quyền im lặng này nó xuất phát từ một quyền cơ bản của con người, đó là quyền của người bị tình nghi là tội phạm hay người là bị can, bị cáo phải nhận được sự trợ giúp pháp lý ngay từ đầu. Chính vì thế cái quyền im lặng này sẽ cho phép thể hiện trên thực tế họ có quyền chờ luật sư trước lúc cơ quan điều tra tiến hành thẩm vấn đối với họ”.
Hiện nay, Quốc hội VN đang thảo luận việc có nên bổ sung “quyền im lặng” của bị can, bị cáo vào trong trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (TTHS). Tuy nhiên đã có vấn đề khác biệt lớn về quan điểm giữa các ĐBQH.
Theo báo Tuổi trẻ, vừa qua Quốc hội thảo luận dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), các ĐBQH là tướng công an đều không muốn quy định “quyền im lặng” trong bộ luật này. Theo đó, quan điểm của ngành Công an là “Luật cần phải tạo điều kiện cho cơ quan tư pháp làm việc, nếu không sẽ xảy ra tình trạng chúng ta bó tay trong cuộc đấu tranh chống tội phạm”. Còn các ĐBQH khác thì cho rằng “quyền không khai báo các nước đã làm hết, còn VN nếu không như thế là hạ thấp quyền của người dân Việt Nam xuống”.
Đây là vấn đề do khác biệt về quan điểm, đánh giá về hiện tượng này, từ Hà nội LS. Trần Thu Nam cho biết:
5 bị cáo là công an, đã tham gia trong vụ bắt giữ, đánh đập nạn nhân Ngô Thanh Kiều đến tử vong tại phiên xử hôm 27/3/2014.
“Từ trước đến nay, ở VN người ta chưa quen với cách thức làm luật theo cái hướng bảo vệ quyền con người một cách tối đa, như các nước khác. Khi cho rằng khi bản án chưa có hiệu lực thì con người họ vẫn có các quyền của họ. Tuy nhiên ở VN, các bản án được xét xử không dựa trên cơ sở tranh luận, họ đã quen cách thức cũ là người bị coi là phạm tội phải có trách nhiệm trả lời. Và qua nhiều vụ án cho thấy, khi không trả lời theo yêu cầu của họ thì họ sẵn sàng dùng vũ lực”.
Việc đưa “Quyền im lặng” đối với các bị can, bị cáo bổ sung trong Bộ luật TTHS là điều HP đã quy định và hết sức quan trọng, LS. Phan Trung Hoài ghi nhận:
“Theo quy định của pháp luật VN, thì bị can, bị cáo có quyền, nhưng không buộc chứng minh là mình vô tội. Theo quy định của khoản 2 điều 72 của Bộ luật TTHS thì không thể sử dụng lời khai nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội, nếu như nó không thống nhất với các chứng cứ khác trong hồ sơ. Quyền đó là quyền con người, đã được nhà nước VN ký kết khi gia nhập công ước của LHQ về các quyền Dân sự và chính trị từ năm 1966”.
Quyền tham gia tố tụng của LS sẽ bị vi phạm
Nếu không bổ sung “Quyền im lặng” đối với các bị can, bị cáo thì quyền tham gia tố tụng của LS sẽ bị vi phạm. Nói về các vướng mắc và trở ngại, LS. Phan Trung Hoài cho biết:
“Nhưng vấn đề vướng mắc cụ thể hiện nay là ở chỗ cơ hội của người bào chưa – Luật sư tiếp cận với người bị bắt giữ ngay từ đầu, nó có một rào cản rất lớn, đó là trình tự cấp giấy phép chứng nhận người bào chữa. Đến đây thì nó lại phát sinh tình trạng, khi tiếp xúc lấy ý kiến của người bị bắt hay bị tạm giữ nhưng không có sự có mặt của Luật sư cho nên chúng tôi thường nhận được cái gọi là giấy hoặc quyết định từ chối có người bào chữa. Vì họ cho rằng, bị can trong giai đoạn điều tra thì chưa cần thiết có Luật sư”.
Khi được hỏi, lý do tại sao ngành Công an lại kiên quyết bác bỏ việc bổ sung quyền im lặng của các bị can, bị cáo trong Bộ luật TTHS (sửa đổi)?
Một khi luật pháp công nhận quyền này thì việc phán xử một bản án phải được dựa trên các chứng cứ, đó là một bước tiến để tránh khỏi vấn đề các bản án oan sai.
Với tư cách là một người Luật sư tôi cho rằng cần thiết phải đưa quyền im lặng của bị can, bị cáo bổ sung trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự và họ có quyền im lặng cho tới lúc có Luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ - LS Trần Thu Nam
LS. Phan Trung Hoài khẳng định:
“Đây là vấn đề thuộc về nhận thức, nhưng rõ ràng nếu hiểu sự tham gia của LS sẽ gây khó khăn cho giai đoạn điều tra tôi nghĩ là không đúng. Nên hiểu, LS thực hiện chức năng xã hội của mình cũng góp phần chống và phòng ngừa tội phạm, để giúp các cơ quan tố tụng xác định sự thật khách quan và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Hiểu như vậy để thấy vai trò của LS là phản biện, để đảm bảo phán quyết của tòa án phải xuất phát từ việc tranh tụng”.
Bằng một thái độ thẳng thắn, LS. Trần Thu Nam giải thích:
“Cái nguyên nhân là do thói quen từ trước đến nay họ đã như thế rồi, cho nên bây giờ sửa đổi theo chiều hướng có lợi cho bị can, bị cáo thì họ chưa sẵn sàng về vấn đề tâm lý, về kỹ thuật làm án và khả năng chứng minh tội phạm. Do vì chưa quen nên họ lo sợ quyền im lặng trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự mới sẽ làm khó khăn hơn trong công việc chứng minh tội phạm, từ đó sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm. Chính vì thế họ đã phản đối rất mạnh về việc ấy”,
Nói về các suy nghĩ của cá nhân, trước việc nhiều khả năng “Quyền im lặng” đối với các bị can, bị cáo sẽ không được đưa vào trong Bộ luật TTHS (sửa đổi) LS. Trần Thu Nam nói:
“Với tư cách là một người Luật sư tôi cho rằng cần thiết phải đưa quyền im lặng của bị can, bị cáo bổ sung trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự và họ có quyền im lặng cho tới lúc có Luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ. Tuy nhiên có nhiều nguy cơ quyền im lặng sẽ không được bổ sung trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự mới. Đó là một điều đáng thất vọng và cũng đáng thất vọng vì có một số những người có chức vụ quyền hạn lại có các phát biểu mang tính chất kém hiểu biết”.
Cũng theo báo Tuổi trẻ, ĐBQH Trần Du Lịch, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP HCM bày tỏ: “Đừng nghĩ rằng vì trình độ thế này chúng ta không nên cải cách. Chúng ta không kém hơn các nước, vấn đề là có tôn trọng quyền của bị can, bị cáo hay không”.
Một vấn để khác cần xem xét đó là, khi ĐBQH là một viên tướng công an thì việc bảo vệ quyền lợi cho người dân sẽ bị lệch lạc. Thay vì làm cho Hiến pháp công minh hơn, thì họ lại bênh vực cho người trong ngành của mình, tìm mọi lý do để làm cho việc điều tra xét hỏi thuận lợi. Bất kể sự thuận lợi đó có dẫn tới ép cung, nhục hình,  khi nghi can không có được quyền tối thiểu của một công dân là quyền im lặng cho tới khi có luật sư bảo vệ cho họ.
A.V.

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Nguyên Ngọc và Thomas J. Vallely: “Giáo dục - Giá trị vĩnh cửu của hoà bình”

Nguyên Ngọc và Thomas J. Vallely: “Giáo dục - Giá trị vĩnh cửu của hoà bình”

bauxitevnFri 7:52 AM


Minh Nguyễn phỏng vấn


Thomas Vallely và Nguyên Ngọc(ảnh của Vũ Thành Tự Anh)


Họ khác nhau hoàn toàn về nhân chủng, ở hai quốc gia cách xa nhau về địa lý và khác biệt về lịch sử hình thành. Những năm tháng chiến tranh, có lúc họ là kẻ thù một mất một còn của nhau trên mảnh đất nhỏ ven sông Thu Bồn (Quảng Nam). Sau khi cởi bỏ bộ đồ lính trận, trở về cuộc sống thường nhật trong thời bình, họ lại gặp nhau ở Việt Nam như một cơ duyên. Vậy mà cũng đã trên hai mươi năm. Điểm tương đồng gắn kết họ lại với nhau: một niềm tin bất diệt vào sức mạnh giáo dục đối với sự trường tồn của mỗi quốc gia. Đó là giá trị vĩnh cửu của hoà bình. Cuộc trò chuyện của chúng tôi với hai - kẻ - cựu - thù - hai - người - bạn - hai  -  nhà - văn - hoá ở cách nhau hơn nửa vòng trái đất luôn đau đáu về nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục mang trong mình nó nhiều khuyết tật… 

Được biết hai ông vốn là cựu thù tại chiến trường bãi dâu sông Thu Bồn - Quảng Nam  trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng may mắn, cả hai còn nguyên vẹn trở về. Ký ức chiến tranh ấy có ám ảnh các ông trong cuộc sống hoà bình hôm nay?
Nguyên Ngọc: Có hôm tôi kể với Thomas Vallely hồi cuối năm 1969 - 1970, khi Mỹ đánh phá cực kỳ ác liệt trên vùng nông thôn Quảng Đà (tên của vùng Bắc Quảng Nam hồi bấy giờ), cố cày trắng, quét sạch hết các cơ sở cách mạng, để đánh bật và tiêu diệt chủ lực Việt Cộng, thì chúng tôi, đứng đầu bấy giờ là anh Bí thư Quảng Đà, đối phó bằng cách quyết trụ lại trong các bãi bói ven sông Thu Bồn thuộc vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Bí thư tỉnh quyết trụ ở nơi ác liệt nhất thì không bí thư huyện, từ đó cũng không bí thư xã nào, rồi không cơ sở cách mạng nào ở từng thôn xóm bỏ đất của mình mà chạy. Vô cùng gian nan, trầm luân nữa, từng ngày, nhưng cuối cùng cứ như vậy mà giữ được đất, từng tấc, được dân, từng người, giữ được phong trào… Miệt bói ấy ngày trước là những bãi dâu (tiếng Quảng Nam gọi là “biền dâu”) xanh mướt và mênh mông, cơ sở của nghề lụa nổi tiếng xứ Quảng. Khi dâu đã bị quét sạch, thì tự nhiên mọc lên một loại cây gọi là cây bói, giống như lau sậy, hoang dã hơn, cũng mênh mông, mịt mùng hơn. Chúng tôi đào hầm bí mật trụ lại trong bói. Ngày nào Mỹ cũng bắn vào đấy, cả đêm nữa, có hôm còn tưới xăng đốt, chúng tôi cháy sém cả tóc, chậm chân một chút chết thiêu ngay… Thomas bảo, đúng năm ấy ông là thủy quân lục chiến ở Quảng Đà, chính ông đã bắn vào các bãi bói đó. Tôi bảo, cũng may ông bắn xoàng… Và chúng tôi cùng cười. 
Vậy đó, chiến tranh sau gần nửa thế kỷ. Hôm ấy, hai chúng tôi ngồi ở một quán nhỏ ven sông Hoài - Hội An.  Bên ngoài lắc rắc mưa xuân. Rất yên tĩnh… Chị gọi chúng tôi là “cựu thù”. Đúng thôi. Nhưng bây giờ, quả thật rất khó hình dung. Trong cuốn sách rất hay “Nếu đi hết biển” của mình, đạo diễn Trần Văn Thủy có dẫn lời một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, Wayne Karlin, nói rằng chiến tranh đắp lên khuôn mặt của người ở bên kia chiến tuyến một chiếc mặt nạ, chiếc mặt nạ hì hợm của kẻ thù. Để cho ta khinh bỉ, căm thù và tiêu diệt. Nhiệm vụ của văn học hôm nay là gỡ chiếc mặt nạ ấy ra, trả lại khuôn mặt người cho con người, để ta nhận ra khuôn mặt nguời của nhau. Chúng tôi thường không gọi ông là Thomas Vallely, cũng ít khi gọi Thomas, chỉ quen gọi Tommy. Nhìn mà xem, Tommy, cũng lạ, nhiều lúc ngồi với ông, tôi không có cảm giác đang nói chuyện với một người Mỹ. Mà với một ông già Việt phúc hậu, thậm chí có gì đó…  hơi quê mùa, thật thà và quê mùa…
Vậy đó, giá trị của hòa bình. Trả lại những gì giản dị nhất của đời thường. Thật buồn và đau đớn, phải đổ biết bao nhiêu máu xương để có lại được điều giản dị này…
Có lẽ nhân đây cũng xin nói luôn: Tôi muốn gọi ngày 30/4 giản dị thế này: Ngày Hòa bình. Không gì vĩ đại hơn đâu. 

Thomas Vallely: Tôi phục vụ 13 tháng tại Việt Nam trong khoảng thời gian giữa 1969 và 1970. Như đã tâm sự với người bạn già Nguyên Ngọc của tôi trong một bữa ăn trưa gần đây bên bờ sông Hoài ở Hội An, tôi - một thanh niên 19 tuổi - bước vào cuộc chiến mà hầu như không hiểu tí nào về hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hay các giả định chiến lược có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. (Tôi chỉ học được chút ít về chủ nghĩa cộng sản khi tôi vào đại học - tức là sau khi tôi từ Việt Nam trở về). Giống như nhiều thanh niên trai trẻ thế hệ mình, tôi lớn lên với sự quyến rũ của dư âm Thế chiến II, cuộc chiến mà người Mỹ từ trước đến giờ luôn xem là “Cuộc chiến chính nghĩa” được tiến hành vì mục đích cao cả. Nhưng khi là một người lính thủy quân lục chiến đặt chân tới Quảng Nam, tôi thấy ngay rằng vai trò của Mỹ ở Việt Nam khác hoàn toàn.

Khi tới Việt Nam lần đầu, tôi đã không biết gì về đất nước này và tôi cũng đã không học được nhiều trong thời gian tôi ở đó. Trên thực tế, có thể nói là tôi đã học được hai điều. Thứ nhất, tôi  hiểu rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong cuộc chiến này. Chiến thắng là điều không thể khi mà hỏa lực Mỹ giết hại quá nhiều dân thường vô tội. (Bạn không cần phải là một chuyên gia chống chiến tranh du kích nổi tiếng như John Paul Vann[1] (*) để nhận ra điều đó). Thứ hai, tôi đã rất vui khi sống sót trở về.   

Phải rất lâu sau tôi mới bắt đầu học hỏi về Việt Nam. Tôi đã có rất nhiều người thầy tuyệt vời.  Một trong những người tuyệt vời nhất là Nguyên Ngọc. Tôi học được rất nhiều điều từ Nguyên Ngọc, nhưng có một bài học nổi bật hẳn lên vì nó liên quan đến Việt Nam ngày nay. Nguyên Ngọc cho rằng khi chiến tranh kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt Nam nhầm tưởng là đấu tranh đã kết thúc. Trên thực tế, những thách thức lớn nhất vẫn đang chờ ở phía trước. 

 Nghe nói hai ông đang cùng phản biện cho một phim tài liệu lịch sử về chiến tranh Việt Nam? Sự thật lịch sử quan trọng nào của cuộc chiến tranh này sau 40 năm được công bố? 
Nguyên Ngọc: Theo chỗ tôi được biết Tommy là cố vấn của bộ phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đã quay trong mấy năm qua. Ông đến Hội An tìm tôi, là bạn cũ, trong chiến tranh và trong hòa bình, rủ tôi sang xem một số phần bộ phim đang ở dạng bản nháp đó, và có ý kiến.
Tôi nghĩ chắc không có “sự thật lịch sử quan trọng” (và mới) nào đáng để tò mò, được công bố đâu. Nếu có thì cũng là đôi cách cắt nghĩa khác nhau nào đó về một số sự kiện trong chiến tranh, cũng là những sự kiện đã được nói đến rồi. Có lẽ điều quan trọng nhất qua bộ phim này là nhìn lại cái cuộc bi thảm ấy (còn gì bi thảm hơn chiến tranh?) như thế nào. Hiểu về nó ra sao? Và để làm gì? … Những năm qua, ngày tôi càng nghĩ rằng chắc không thể tách một cuộc chiến tranh ra khỏi hậu chiến của nó. Có hôm tôi hỏi Tommy: có phải ngày ấy ông sang Việt Nam, cầm súng và đánh nhau, vì ông được người ta nói rằng phải ngăn cộng sản ở bên ấy lại, để lan ra cả Đông Nam Á thì hậu quả khôn lường… Tommy bảo không hề. Ông là người dân Mỹ, được gọi đi làm nghĩa vụ công dân, ông đi, thế thôi… Ở cái quán nhỏ bên sông Hoài, chúng tôi đã nói với nhau về những điều như thế. Suốt hơn 30 năm sau chiến tranh, Tommy trở lại Việt Nam, đã làm bao nhiêu việc vì Việt Nam, từ những điều to lớn góp phần cho thay đổi và phát triển của đất nước này, đến những việc có ích cụ thể, thiết thực… Vì sao? Tôi nghĩ, từ hậu chiến nhìn lại, chắc nhiều người Mỹ hiểu ra rằng chỉ đơn giản ra đi vì “nghĩa vụ công dân” như họ đã đơn giản ra đi, lại có thể tàn phá cả một đất nước tận ở đâu đâu. Nay họ muốn góp phần làm lại … 
 Còn chúng ta, hậu chiến cho ta nghĩ gì? Nếu vì một hậu chiến như thế này hôm nay, thì có đáng cho những hy sinh khủng khiếp như đã qua? Ta cũng phải từ hậu chiến mà nhìn lại chiến tranh. Thôi, phải nói thôi, cho tôi nói thật: chúng ta đang sống chẳng xứng chút nào với những gì vì nó mà những năm tháng đằng đẵng ấy ta đã cắn răng lại mà sống và chiến đấu. Ta vẫn thường nói chiến tranh chưa thôi đào bới lương tâm nước Mỹ. Cũng phải để cho nó còn đào bới lương tâm chúng ta nữa chứ. Theo nghĩa đó, đừng quên chiến tranh. Đừng phản bội chiến tranh. Sống và làm ăn sao đây hôm nay, để đừng tiếc một cuộc chiến tranh đã quá khủng khiếp.

Thomas Vallely:Cũng chỉ mới gần đây, khi tham gia với tư cách là cố vấn cho một dự án phim tài liệu ở Mỹ, tôi mới bắt đầu đào sâu hơn nữa vào lịch sử cuộc chiến mà tôi và ông Nguyên Ngọc đã đối đầu. Tôi hy vọng rằng, hai năm nữa khi bộ phim được phát hành, nó sẽ giúp khán giả hiểu rõ hơn về cuộc chiến này. Ở Hoa Kỳ có những bất đồng tai hại ngay cả về những sự kiện cơ bản. Ngay cả khi chúng tôi có nhiều khả năng tiếp cận tư liệu lịch sử hơn so với phía Việt Nam thì để những tư liệu này nói lên sự thật ở phía Hoa Kỳ cũng không đơn giản. Ở Việt Nam, thách thức này thậm chí còn lớn hơn bởi vì rất nhiều tài liệu lưu trữ cho đến nay vẫn rất khó tiếp cận. Một trong các lý do tại sao tôi quyết định tham gia thực hiện bộ phim này là vì các nhà làm phim thực tâm muốn xem xét cuộc chiến từ quan điểm của tất cả các bên chứ không chỉ từ phía Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ từ Chính phủ Việt Nam cho phép đoàn làm phim đến Việt Nam và trò chuyện với nhiều người đã từng tham gia cuộc chiến. Mong rằng nhiều người Việt Nam sẽ xem phim. Họ có thể đánh giá bộ phim về chủ đề phức tạp như thế thành công ra sao. 

 Nguyên Ngọc:Nói thật nhé, điều tôi quan tâm, và cảm thấy hạnh phúc: Tommy và tôi bây giờ, chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể  nói với nhau về nhng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia.
Nhà báo Mỹ gốc Ý  quá cố Oriana Fallaci  từng  viết cuốn sách rất hay trong thời điểm  chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn khốc liệt nhất, trước và sau Mậu Thân 1968. Từ Việt Nam, bà nhận ra rằng: “Cuộc sống, cuộc chiến tranh và rồi chẳng có gì” - NXB TP. HCM - năm 1991Trong bài  thơ Đá ơi”, tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn - 2010,  người chiến sĩ năm xưa ấy cũng thốt lên lên tiếng thở dài: “Nghĩ cho cùng / trong mọi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân đều bại . Với hai ông, chiến tranh là gì? Cuộc sống là gì, và hoà bình có phải là điều mà con người luôn chiến đấu để gìn giữ? 
Nguyên Ngọc: Tôi có đọc cuốn sách của Oriana Fallaci, đã rất lâu, một cuốn sách thật hay. Sách viết bằng tiếng Ý. Trong bản dịch tiếng Pháp của Jacqueline Remilet - NXB Robert Laffont - Paris, nó có tên là La vie, la guerre, et puis rien, Cuộc sống, cuộc chiến tranh, và rồi không còn gì nữa hết. Cuốn sách ấy bắt đầu bằng một câu hỏi : Qu’est-ce que la vie ? Cuộc sống là gì ? Cũng có nghĩa: Con người là gì? Trong chiến tranh, con người không từ bất cứ điều gì để tiêu diệt con người ở phía bên kia. Và, bằng một biện chứng éo le mà kinh hoàng, cũng đồng thời tự diệt đi con người ở trong chính mình. …et puis rien, và rồi không còn gì nữa hết! Tôi nghĩ Tommy, bạn tôi, làm nhiều việc cho Việt Nam, kiên trì, tận tụy, cũng chính là để tự làm lại mình, con người của mình, trong mình, sau chiến tranh. Chúng ta cũng vậy, phải vậy. Cho nên, tôi nghĩ, đẹp thay, mà cũng là tất yếu chăng, ông ấy và tôi, chúng tôi lại gặp nhau trong giáo dục. Nhất thiết phải là trong giáo dục, bằng giáo dục. Không có cách nào khác. Chỉ có thể làm lại con người bằng giáo dục. Năm ngoái, Thomas Vallely được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh vì cống hiến cho giáo dục Việt Nam. Trong diễn từ nhận giải thưởng tháng 3/2014, Tommy khẳng định chỉ có thể cứu đất nước này bằng giáo dục! Nghĩa là từ làm lại con người. Tôi nghĩ chắc ở nước mình, thậm chí có thể cho đến tận hôm nay, Phan Châu Trinh là người thật sự thống thiết hiểu rằng cần phải làm lại con người để mà xây dựng lại đất nước này, và chỉ có thể bằng giáo dục.
Có phải giáo dục trong ý nghĩa ấy đã kết hai ông lại cùng nhau trên con đường gian truân của giáo dục Việt Nam? Nhìn nhận của hai ông một cách thẳng thắn về thực trạng giáo dục Việt Nam? Và nó còn có cơ may nào cho một nền giáo dục vốn đứt quãng và có quá nhiều bất cập hiện nay?
 Nguyên Ngọc: Đã mấy chục năm nay rồi, ở Việt Nam chúng ta bàn cãi miên man về giáo dục, cải cách đi rồi cải cách lại, đổi mới rồi đổi mới căn bản và toàn diện… Nói đủ thứ chuyện, và đều hay ho, cũng không sai. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Về cơ bản, chưa nhích lên được gì. Tôi cũng có một ngôi trường nhỏ, gần mười năm nay tôi loay hoay với nó. Đến nay thì có lẽ tôi đã hiểu: nếu tôi, chúng tôi, dù đã có đủ thứ lý thuyết thâm thúy, đủ thứ chương trình tiên tiến, hiện đại…, nhưng nếu chúng tôi không tạo được một môi trường thật sự tự do cho những người học thật sự tự do, thì chắc chắn chúng tôi sẽ thất bại. Như giáo dục của chúng ta bây giờ.
 Chị muốn tôi nói chỉ vài chữ về thực trạng giáo dục của chúng ta ư? Chúng ta không có một nền giáo dục tự do. Và đó là nguy cơ cho dân tộc. Chúng ta cần một nền giáo dục tự do.
 Với tôi, đến hơn 40 tuổi tôi mới thật sự hiểu cần nhất, quý nhất cho con người là tự do. Lần sau, nếu còn có lần đó, tôi sẽ cố gắng hiểu ra sớm hơn
Thomas VallelyNguyên Ngọc và tôi thoạtđầu trở thành bạn bè không phải vì chúng tôi có cùng một quá khứ là cựu chiến binh mà vì niềm tin của chúng tôi vào vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục đối với tương lai của Việt Nam. Tôi đã vinh dự nhận giải thưởng Phan Châu Trinh năm ngoái. Tôi hiểu rằng Phan Châu Trinh có một niềm tin sắt đá rằng giáo dục là chìa khóa để chuyển hóa Việt Nam thành một xã hội tiên tiến. Rõ ràng là Nguyên Ngọc đang tiếp nối sự nghiệp của Phan Châu Trinh, cả hai đều thông qua giáo dục đại học và thông qua các nỗ lực của mình để gìn giữ và tôn vinh di sản văn hóa phong phú của Việt Nam. 

Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc rằng tự do là yếu tố nền tảng của một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Giáo dục phải truyền cảm hứng cho học viên, thôi thúc họ tự suy nghĩ cho bản thân mình và cho họ khả năng theo đuổi học tập suốt đời. Thi sĩ William Butler Yeats từng phát biểu một câu nổi tiếng rằng “giáo dục không phải là rót cho đầy tri thức mà là thổi bùng ngọn lửa”. Hẳn nhiên, giáo dục cũng phải chuẩn bị cho học viên đóng góp một cách có ý nghĩa cho xã hội của họ. Hiện tại, tôi đang tham gia vào nỗ lực thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một trường đại học độc lập, không vì lợi nhuận. Tôi hy vọng rằng cho dù FUV đi theo hướng đổi mới công nghệ để cung cấp cơ hội học tập được thiết kế nhằm chuẩn bị cho sinh viên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế tri thức thế kỷ 21, FUV vẫn sẽ thể hiện tinh thần của Phan Châu Trinh. 

Thomas J. Vallely trở lại Việt nam khá sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông từng hướng dẫn các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam nghiên cứu thực địa sự phát triển của một số nước Đông Nam Á với kỳ vọng Việt Nam sẽ “phát triển theo hướng rồng bay”. Mục tiêu này của ông có đạt được? 
Thomas Vallely: Trọng tâm công việc của tôi ở Việt Nam trong 30 năm qua là làm thế nào để Việt Nam vượt qua được những thách thức này và khai thác hết tiềm năng to lớn của mình. Một cách công bằng, tôi rất tôn trọng những thành quả của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể và còn phải làm nhiều hơn thế nữa. 

Cách đây vài năm, một số đồng nghiệp của tôi ở Trường Fulbright dịch cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại[2] (**) trong đó tìm hiểu lý do vì sao một số ít quốc gia có thể trở thành nước phát triển cao trong khi đa số các nước khác lại thất bại. Các tác giả của cuốn sách này kết luận rằng chất lượng thể chế ở mỗi nước là yếu tố quyết định. Bởi vì thể chế phản ánh hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, nên đó là một cách khác để nói rằng chính trịxác định quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia. 

CuốnTại sao các quốc gia thất bại lập luận rằng những quốc gia thành công nhất là những quốc gia phát triển thể chế chính trị dung hợp. Ở mức độ khiêm tốn, quá trình này có thể được quan sát thấy tại Việt Nam. Theo tôi, việc củng cố vai trò và uy tín của Quốc hội là một trong những xu hướng đáng khích lệ nhất gần đây ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi không biết bất kỳ ai ở Việt Nam tin rằng tiến triển hiện nay đủ nhanh và đúng hướng để tiến tới các thể chế chính trị thực sự dung hợp. 

Trong khi dường như có sự đồng thuận rộng rãi bề ngoài về những ưu tiên chính sách quan trọng như sự cần thiết phải cải cách thể chế, cải cách pháp lý và tái cấu trúc nền kinh tế, tôi không cho rằng những ưu tiên này rốt cuộc đã trở thành một tầm nhìn chung cho tương lai của xã hội Việt Nam.  Xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một mục tiêu đáng hoan nghênh, nhưng trên thực tế các khẩu hiệu kiểu như thế thực sự hàm ý gì? Một tầm nhìn chung như vậy chỉ có thể phát khởi thông qua các cuộc tranh luận và thảo luận cởi mở. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy ví dụ về những thảo luận rộng rãi trên cả nước có thể đưa đến tầm nhìn thống nhất hơn. Chúng ta đã thấy điều đó ở thảo luận về đổi mới Hiến pháp năm 2013. Chúng ta đã chứng kiến điều đó qua sự thể hiện tình cảm đặc biệt tiếc thương Đi tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đến nay, những thảo luận này vẫn được tiếp tục hàng ngày trên internet. Đáng tiếc là những cuộc thảo luận này lại diễn ra chủ yếu ở bên ngoài thể chế công. Quốc hội có thể tạo ra một diễn đàn Việt Nam cần để kiến tạo một tầm nhìn quốc gia thuyết phục hơn.

Tôi cho rằng những yếu kém kinh tế là mối đe dọa lớn nhất đối với Việt Nam. Trong số những người tôi quen, không thấy ai tin rằng Việt Nam đang phát triển hết tiềm năng vốn có. Nếu không trở lại mức tăng trưởng kinh tế nhanh và toàn diện hơn thì nhiệm vụ quản trị quốc gia sẽ trở nên ngày càng khó khăn. Việt Nam thường được khen ngợi về tính “ổn định chính trị”, nhưng nguồn gốc của sự ổn định này là gì? Tôi cho rằng nó bắt nguồn từ cảm giác lạc quan về tương lai. Kể từ lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam năm 1985, những người Việt Nam tôi quen biết phần lớn đều tự tin vào tương lai của họ cũng như tương lai của đất nước. Họ nhiệt thành tin rằng cuộc sống của con cháu họ sẽ tốt đẹp hơn họ. Liệu người Việt Nam năm 2015 có còn tin tưởng vào tương lai? Tôi không chắc. 

Chúng ta đều biết rằng khi các nước phát triển, việc duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh để nâng cao mức sống cho đại bộ phận người dân sẽ càng ngày càng khó khăn hơn. Một nền kinh tế phát triển chia sẻ trên bình diện rộng không chỉ tạo ra sự thịnh vượng mà còn mang lại nhiều lợi ích vô hình khác cho xã hội. Một nhà kinh tế ở Trường Đại học Harvard viết cuốn sách nhan đề “Hệ quả đạo đức của tăng trưởng kinh tế” trong đó lập luận rằng các xã hội được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế thường khoan dung hơn với sự đa dạng, nhiệt thành với dân chủ hơn và tạo ra nhiều cơ hội thăng tiến xã hội hơn. Ngược lại, kinh tế đình trệ thường dẫn tới xáo trộn xã hội, suy giảm sự khoan dung và bất ổn dân sự. Bởi vậy, có rất nhiều lý do tại sao Việt Nam cần phát triển kinh tế tốt hơn.

Nhà văn Nguyên Ngọc từng chọn cho mình 3 địa điểm trên đất nước khốn khổ của ông để yêu mến với niềm tự hào và ray rứt khôn nguôi: Tây Nguyên, Hội An và Hà Nội. Còn Thomas,  nơi nào ở Việt Nam mà ông có thể có chút cảm tình? Vì sao như vậy?
Nguyên Ngọc:Hồi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôi có nói: «Hà Nội đẹp đến nỗi nó bị phá thế mà vẫn còn đẹp!». Thế nhưng, sự xuống cấp của Hà Nội không chỉ có ý nghĩa tự nó. Nó tiêu biểu cho sự xuống cấp văn hóa của đất nước này. Thanh lịch nghìn năm bị thay thế bằng hai thứ trộn lẫn: vừa nhếch nhác quê kệch vừa hợm hĩnh diêm dúa lố bịch, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một. Nơi là khuôn mặt từng yêu kiều của đất nước nay đang trưng ra một diện mạo xấu và không ít lần làm trò cười cho thiên hạ: giật hoa đào, giành suất ăn khuyến mãi, leo tường vào tắm miễn phí, chặt cây xanh hay như chuyện xây tháp truyền hình cao nhất thế giới gần đây, v.v..
Những người yêu Hà Nội đều đau! Tôinghĩ: cả nước cần xúm lại mà cứu Hà Nội, vì cả nước. Còn Tây Nguyên, mấy năm trước đây tôi đã từng báo động: những giới hạn quan trọng đến mức sinh tử ở đây đã bị vượt qua: phá sạch rừng, đảo lộn dữ dội cơ cấu dân cư, hủy hoại tất cả các dòng sông lớn, hút cạn nước ngầm, phá vỡ các làng…, để cuối cùng phá nát văn hóa. Ở nơi vốn là một vùng văn hóa vào loại độc đáo và đặc sắc nhất nước, nay chỉ còn văn hóa Tây Nguyên dỏm. Hầu như không còn có thể quay trở lại, và đang thật sự không có đường ra… Vậy mà, chẳng hạn, người ta vẫn tiếp tục nói dối về chương trình bô-xít tai họa, nghĩa là cuộc tàn phá suốt 40 năm chưa hề chịu dừng lại.
Nhiều lần tôi tự hỏi: Vì sao ? Chỉ có thể là tham lam, ngu dốt, và kiêu ngạocoi thường mọi thứ. Hỏi xem : Có ai đến Tây Nguyên để học? Học sự hiền minh bất tận của rừng, và của những dân tộc từng biết cách sống với rừng, nghĩa là với tự nhiên, hàng nhiều ngàn năm nay. Một bài học có thể cho cả nhân loại và nền văn minh đang lúng túng của mình ngày nay. Chúng ta đừng ngạo mạn,xấc xược đối với các dân tộc Tây Nguyên và với văn hóa. Hình như đang có một dòng lũ vô văn hóa đang muốn cuộn phăng cả đời sống chúng ta. Điều này thật đáng sợ. May thay, còn có một Hội An. Hội An nhỏ thôi, nhưng trong văn hóa không có khái niệm nhỏ hay lớn.
Tôi cũng không muốn nói thêm nhiều về Hội An. Chỉ xin có một nhận xét: Hội An luôn thấy mình có vấn đề, luôn lo lắng, đặc biệt về văn hóa. Bởi vì ở đây người ta hiểu một chân lý khắc nghiệt: cái đẹp luôn mong manh, từ một người con gái đẹp cho đến một văn hóa đẹp. Nó luôn bị thách thức từng ngày, và trong từng con người. Phải thận trọng từng chút, trân trọng từ cái nhỏ nhất. Đến Hội An có thể nhận ra một trong những điều lạ này, ở từng công việc, từng con người: vừa nhẹ nhàng, thong dong, thoải mái, vừa cẩn trọng, tinh tế trong từng chút nhỏ; có lẽ vì vậy mà ở đây cái bình dân với cái tinh hoa có thể hài hòa thật hay…
 Còn một chỗ để ta không hoàn toàn bi quan.
Thomas VallelyĐịa điểm yêu thích của tôi ở Việt Nam không phải là một thành phố hay tỉnh lị nào mà là một ngôi nhà. Chính xác hơn, đó là ngôi nhà và phòng tranh của người bạn thân của tôi, họa sĩ Phạm Lực, một hậu duệ trực tiếp của Nguyễn Du. Bất cứ khi nào tôi tới thăm Phạm Lực, trò chuyện về tranh của ông, tôi đều được học hỏi thêm về Việt Nam, cả về quá khứ và hiện tại. Tranh của Phạm Lực thấm đượm di sản văn hóa phong phú của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là tiếng nói vang vọng về cuộc sống trong những thời kỳ sáng tác của ông. Ví dụ, một chủ đề quen thuộc trong tranh Phạm Lực những năm chiến tranh là những mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu. Ngày nay, một trong số những bức tranh của ông đề cập đến vấn đề môi trường suy thoái, sự câu kết độc hại của tiền bạc, quyền lực và lòng tham. Sáng tác của ông vừa mang tính cách đặc trưng Việt Nam nhưng đồng thời cũng rất có tính phổ quát.

Tôi luôn rời nhà Phạm Lực với cảm giác được tiếp thêm sức lực. Và đó là một lý do vì sao tôi không hoàn toàn đồng ý với nhiều bạn bè Việt Nam cùng hay trên lứa khi họ cho rằng văn hóa nghệ thuật của Việt Nam ngày nay thiếu sức sống hay không đáng được trân trọng như trong quá khứ. Trên thực tế, với tôi, văn hóa Việt Nam ngày nay sôi động chưa từng thấy. Điều này mới đây lại được khẳng định khi tôi tham dự lễ trao giải thưởng Phan Châu Trinh 2015, trong đó  vinh danh một số nghệ sĩ tài năng. Lễ trao giải có sự tham dự của nhiều cá nhân ưu tú, đại diện cho rất nhiều giai tầng của xã hội Việt Nam. Tôi rời buổi lễ với cảm giác lạc quan về tương lai của Việt Nam.
Xin cảm ơn Thomas Vallely và nhà văn Nguyên Ngọc đã dành thời gian quý báu để cùngtrao  đổi một câu chuyện dài trong thời bình về Việt Nam một cách thẳng thắn và đầy trách nhiệm. Chúng tôi cũng không quên cảm ơn TS Vũ Thành Tự Anh, người bắc một nhịp cầu giúp chúng tôi tiếp cận với ông Thomas Vallely để thực hiện cuộc phỏng vấn này.

MINH NGUYỄN thực hiện. ẢnhVŨ THÀNH TỰ ANH


[1] Năm 1988, NXB Vintage Books - A Division of Random House - New York xuất bản cuốn: “A BRIGHT SHINING LIE - John Paul Vann and America in Vietnam” của NEIL SHEEHAN,  phóng viên của hãng thông tấn UPI và báo New York Times. Ông là người chứng kiến cuộc chiến tranh Việt Nam từ giữa năm 1962 - 1972. Từ đó, Neil Sheehan phát hiện ra John Paul Vann - một con người  mà thông qua cuộc đời - người ta có thể viết về sự dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John Paul Van đã chết ở Việt Nam năm 1972 trong lúc vẫn tin rằng nước Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến. John Paul Vann là biểu tượng, là nhân vật của cuốn sách đoạt giải thưởng Pulitzer  và giải thưởng sách quốc gia của Mỹ năm 1988. 

Bản dịch của NXB TP. HCM năm 1990 và tái bản lần thứ hai vào năm 1995, mang tên: “Sự lừa dối hào nhoáng - John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” do nhóm dịch giả ở Sài Gòn và nhà báo Lê Minh Đức hiệu đính.

[2] “Vì sao các quốc gia thất bại” của DARON ACEMOGLU và JAMES A.ROBINSON, Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Chi với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan. 

Hiệu đính TS. Vũ Thành Tự Anh - NXB Trẻ - Năm 2013.
Nguồn: http://www.viet-studies.info/MinhHien_NguyenNgoc_Vallely.htm



Nhà văn Nguyên Ngọc: “Chúng tôi không coi văn học và nhà văn là công cụ của ai hết” (trả lời phỏng vấn báo Người Việt)

Nhà văn Nguyên Ngọc: “Chúng tôi không coi văn học và nhà văn là công cụ của ai hết” (trả lời phỏng vấn báo Người Việt)

bauxitevnWed 7:57 AM





Liêu Thái thực hiện


Nhà văn Nguyên Ngọc. (Hình: Nhà văn cung cấp)


Thưa nhà văn, là một người thuộc vào hàng “công thần khai quốc“ của Hội Nhà Văn Việt Nam, đồng thời cũng là chủ khảo của nhiều giải văn học của Hội Nhà Văn Việt Nam (HNVVN), có thể nói là bề dày cống hiến của ông với HNVVN rất dày. Nhưng ông vừa có quyết định từ bỏ HNVVN, ông vui lòng cho biết nguyên nhân và lý do dẫn đến quyết định này? Và HNVVN đã có phản ứng gì với quyết định cùa ông?


Tôi có dự đại hội thành lập HNVVN năm 1957. Tất cả những người dự đại hội đó đều được coi đương nhiên là “hội viên sáng lập”. Tôi là một kiểu “công thần khai quốc” như thế đấy thôi! Hồi đó tôi còn rất trẻ, từ tỉnh lẻ xa xôi mới ngơ ngác về Hà Nội và vừa có tác phẩm đầu tay. Được vào Hội là thích lắm rồi. Về sau mới dần dần hiểu ra và nghĩ khác.


Năm 1979, tôi có lần nói với ông Lê Đức Thọ, bấy giờ là người có vị trí rất cao trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Theo tôi quy luật tự nhiên của đời sống văn học là những người cầm bút chơi với nhau, tập họp nhau thành từng nhóm, hoặc vì cùng khuynh hướng nghệ thuật, hoặc vì nhu cầu giúp đỡ nhau thế nào đó, hoặc cũng có thể đơn giản vì thích tính nhau, gần gũi nhau sao đó… Trong từng nhóm như vậy, họ trao đổi với  nhau về nghề nghiệp, về xã hội, về mọi thứ…, nhắc nhở, động viên, an ủi nhau trong công việc khó khăn nhất, tuyệt đối độc đảm, chẳng ai thay thế hay làm giùm ai được, là viết, đối mặt với trang giấy trắng; rồi ra sách, đưa sáng tác của mình đến công chúng; giúp nhau trong đời sống, bảo vệ nhau về nghề nghiệp và về xã hội. Một nền văn học phát triển một cách tự nhiên và lành mạnh là từ những nhóm như vậy. Ở ta trước đây và ở hầu khắp thế giới xưa nay đều như thế, tạo nên một đời sống văn học nhẹ nhõm mà đa dạng, giàu có. Từ sau 1945 ta lùa tất cả vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên, chỉ chật chội và làm nghèo văn học. Trong chiến tranh, còn chừng nào chấp nhận được; trong hòa bình rất không nên… Tôi nói với ông Lê Đức Thọ rằng trước sau đời sống văn học cũng sẽ đi theo con đường đó, nếu Đảng muốn lãnh đạo thì Đảng nên chuẩn bị để thích ứng với tình hình đó. Vả chăng, theo tôi, cũng chẳng nên lãnh đạo. Nếu xã hội cần văn học, ấy là cần tiếng nói riêng, khác biệt, độc đáo của từng nhà văn, góc nhìn, cách nhìn riêng của họ, từng người, từng nhân cách và từng tài năng, bằng cách chỉ có văn học làm được, không ai giống ai. Dồn hết họ vào một hội, để chỉ đạo thống nhất, buộc họ nghĩ giống nhau, tức triệt tiêu mất cái riêng họ có, riêng nhà văn mới có để đóng góp, khiến họ chỉ có thể là công cụ tầm thường, vô dụng, còn tai hại nữa, vì khi đó họ chỉ có thể nói theo, nói dối… Rất lạ là ông Lê Đức Thọ bảo: “Nghe cũng phải, để xem…”. Nhưng rồi về sau không thấy ông nói gì, làm gì nữa. Chắc ông còn những lo toan khác, nghiêm trọng hơn, ở chốn cung đình. Mà về phần tôi, tôi cũng không chờ đợi gì ở ông. Nếu đến một lúc nào đó chúng ta có một đời sống văn học thực sự, bình thường, tự nhiên, thì đó cũng do chính những người cầm bút làm ra. Chứ không phải chờ ai cho. Như vậy cái lúc đó nay đã đến. Việc từ bỏ HNVVN hôm nay của chúng tôi là một bước tất yếu theo con đường đó.


Nhắc lại như vậy để nói rằng, ít ra từ 30 năm trước, tôi đã thấy không nên có một hội nhà văn như HNVVN bây giờ, và tôi nên ra khỏi hội đó. Chưa ra ngay vì còn đôi cân nhắc. Năm 1989 tôi được đại hội HNVVN lần thứ tư bầu vào Ban Chấp hành gồm 9 người. Tôi đã nói với các anh chị đã bầu tôi rằng tôi đang đứng trước một lựa chọn: hoặc ở lại làm, hoặc từ chức ngay. Vì tôi biết, với cơ cấu đó, thể chế đó, sẽ có những việc tôi muốn làm, thấy cần làm, cần bảo vệ nhưng tôi sẽ không thể làm được, không bảo vệ được; có những việc tôi biết là xấu, có hại, nhưng tôi sẽ không ngăn được. Cuối cùng tôi đã quyết định ở lại, vì nghĩ bằng cố gắng hết sức may ra có thể làm được đôi việc có ích, và ngăn được đôi điều có hại. Kết quả cũng có lần thành công: Như năm 1991 tổ chức được giải thưởng HNVVN hay nhất trước nay, trao cho ba tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranhMảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng. Nhưng đến năm tiếp sau thì người ta đã rút kinh nghiệm để không cho một giải thưởng “sai lầm nghiêm trọng” kiểu đó lặp lại. Còn thì nhiều thất bại: chẳng hạn đã không ngăn chặn được HNVVN vùi dập tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách… 


Trong các đại hội tiếp sau đó, cho đến đại hội lần thứ 9 đang được chuẩn bị hiện nay, HNVVN ngày càng tự khẳng định trước hết là “đoàn thể chính trị” (đương nhiên là của Đảng Cộng sản Việt Nam), rồi sau đó mới đến “xã hội”, cuối cùng mới là “nghề nghiệp”. Tôi nghĩ, đơn giản: Vậy thì hãy cứ lập một HNV của Đảng Cộng sản Việt Nam đi. Còn thì để cho những người cầm bút nghĩ khác lập những hội, nhóm khác. Sẽ phong phú, đa dạng hơn, vui hơn.


Thực ra từ hơn 10 năm nay tôi đã không còn dính dáng gì đến HNVVN, không dự sinh hoạt nào, không nhận gì của hội đó. Tôi kính trọng nhiều anh chị đang ở trong hội và tôn trọng sự lựa chọn của từng người. Riêng tôi, ngày tôi càng thấy HNVVN với cơ chế và một ban lãnh đạo như hiện nay không còn có ích gì cho nền văn học Việt Nam, cho người cầm bút, trái lại đang là công cụ đắc lực và không thể khác của một guồng máy phản dân chủ gây hại ngày càng nghiêm trọng cho mọi sáng tạo chân chính, cho cả nền văn học. Một HNVVN như hiện nay thực chất chỉ là cách để Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước kiểm soát văn học.


Trước đây tôi chưa ra vì không muốn gây ồn ào. Việc lãnh đạo HNVVN chủ trương gạch tên những người có ý kiến khác mình trong bầu cử đại biểu cho đại hội của HNVVN vừa rồi chỉ là giọt nước cuối cùng tràn ly của một việc, theo tôi, trước sau cũng sẽ đến. Cũng là dịp để chúng tôi cùng quyết định một lần.


Cho đến nay tôi chưa thấy HNVVN có phản ứng gì đối với quyết định của tôi. Chỉ có việc buồn cười: Nghe nói trong đại hội của chi hội HNVVN quanh cơ quan hội ở Hà Nội vừa rồi lại có quyết định cử tôi làm đại biểu chính thức đi dự đại hội HNVVN sắp tới. Cứ như trò hề! Cũng nghe tin ông Đỗ Hàn nào đó ở cơ quan hội nói rằng lãnh đạo hội chưa nhận được đơn xin ra hội của chúng tôi, đến khi nhận được sẽ xử lý theo điều lệ. Xin nói rõ: Chúng tôi tuyên bố từ bỏ một hội đã suy thoái không phương cứu chữa, không xin phép ai đâu!


Có thể nói rằng với tư cách một nhà văn, ông là một nghệ sĩ rất nặng lòng với dân tộc, với công cuộc giáo dục Việt Nam, và đứng trên phương diện một trí thức, ông có phản ứng rất mạnh mẽ với những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Liệu tâm thế này có mối liên hệ nào với quyết định rời bỏ HNVVN của ông?


Để trả lời câu hỏi này của anh, tôi muốn dẫn lại ở đây một câu của Bernard Frank viết về cuốn sách De Gaulle của François Mauriac mà Frank rất chê, đăng trên báo Le Nouvel Observateur cách đây vừa đúng 50 năm: “Không có bất cứ một nhà chính trị nào trên thế giới đáng cho một nhà văn bẻ gãy ngòi bút của mình vì ông ta. Vai trò của chúng ta (nhà văn) – có cần nhắc lại không nhỉ? – đối với chính quyền nào cũng vậy, là không mệt mỏi đặt lại vấn đề, là thể hiện cái tinh thần phủ nhận, mà ông tướng ấy [tức De Gaulle] đã có lần phàn nàn…”. Vậy đó, tôi cũng hiểu về văn học và nhà văn đúng như vậy. Cũng có thể diễn đạt: Sở dĩ xã hội cần nhà văn, là vì anh ta nói tiếng nói khác, nhiệm vụ của anh ta là gây sự hoài nghi, anh ta khiến những điều đã tưởng là như thế chưa chắc đã là như thế. Văn học đề nghị với con người một cách nhìn khác về mọi sự vật. Tôi hiểu như vậy, sống như vậy, nên không có khác biệt cơ bản nào giữa những việc tôi can dự theo trách nhiệm công dân của mình, về xã hội, về chính trị, về văn hóa, về giáo dục… mấy mươi năm nay, với việc tôi cầm bút và thái độ của tôi đối với HNVVN hôm nay.  


Là người chủ xướng xây dựng Văn đoàn Độc lập, ông vui lòng cho độc giả biết đôi nét về Văn đoàn Độc lập?


Trước hết chúng tôi muốn chấm dứt tình trạng dồn nhau hết vào trong một HNV của nhà nước, nằm chung trong cái gọi là “hệ thống chính trị” của Đảng và nhà nước, đương nhiên là công cụ của họ. Chúng tôi không coi văn học và nhà văn là công cụ của ai hết.


Chúng tôi muốn gặp nhau trong một hội đoàn gồm những người cầm bút độc lập, sống, viết một cách độc lập và chịu trách nhiệm về cái viết của mình trước cuộc sống, trước đất nước và công chúng của mình.


Chúng tôi là nhóm họp của những người cầm bút độc lập đầu tiên. Mong sẽ là mở đầu cho những nhóm họp đa dạng, phong phú nữa về sau.


Sau năm 1975, tôi nghĩ nhiều đến một cuộc phục hưng dân tộc sau một giai đoạn lịch sử kéo dài, một thế kỷ nô lệ, tiếp liền một thế kỷ chiến tranh không chỉ vô cùng ác liệt mà còn vô cùng phức tạp (đến mức tới hôm nay còn tranh cãi chưa xong chiến tranh ấy thực sự là chiến tranh gì!). Trong công cuộc to lớn đó, nền tảng là phục hưng văn hóa. Theo tôi, một công cuộc cần thiết và căn bản như vậy đã không được nhận thức đúng mức, thậm chí hầu như không hề được nhận thức. Ngược lại phổ biến tâm lý, từ trên tầng cao nhất, coi mọi sự là đã xong rồi. Trong khi công cuộc xây dựng, xây dựng lại dân tộc đáng ra cần bắt đầu, chỉ có thể bắt đầu, chứ không phải đã kết thúc. Chính vì thế mà cuộc đi tới của dất nước và xã hội 40 năm nay rất loạng choạng. Văn hóa xuống cấp như chưa từng thấy, xã hội mất ổn định nặng nề… Văn học không thể làm ngơ trước tình hình và nhiệm vụ này. Chúng tôi mong muốn góp phần xây dựng một nền văn học có thể giữ được vai trò xứng đáng của mình trong cuộc phục hưng căn bản và sống còn đó. 


Theo ông, khi mà các dòng chảy văn hóa/văn chương cũng như các trào lưu tiến bộ trên thế giới đang từng ngày thâm nhập vào Việt Nam, liệu với cơ chế hoạt động hiện tại, HNVVN sẽ đi đến đâu?


Theo tôi, ở phía Bắc, do những điều kiện khách quan và chủ quan – mà chủ quan là chính – đã bị cắt đứt với dòng chảy văn hóa/văn chương thế giới trong hơn nửa thế kỷ. (Đúng ra chỉ có thông thương với thế giới xô viết và các nước gọi là xã hội chủ nghĩa, một thế giới cũng khá khép kín). Trong khi đó, ở miền Nam dòng chảy này thông thoáng, mạnh mẽ, tương đối cập nhật và liên tục hơn nhiều. Cho nên nối kết trở lại được với di sản của văn học miền Nam trong suốt thời 1954-75, cũng là một trong những cửa mở thông thương với các trào lưu thế giới phong phú và đa dạng. Và là góp phần khôi phục lại dòng chảy bình thường, lành mạnh cho đời sống văn học nước nhà. Chính trên nhận thức như vậy mà chúng tôi đã cố gắng mở mục “Văn học miền Nam 1954-1975” trên trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập. Thừa kế tốt di sản gần của văn học miền Nam 1954-1975 cũng là một trong những điều kiện quan trọng để văn học làm được vai trò cần có của nó hôm nay.


Một cơ chế đầy kiêng kỵ ý thức hệ như của HNVVN hiện nay đương nhiên ngăn cản việc mở cửa ở hướng này. Chỉ mới nói riêng về mặt này thôi, ở một việc này thôi, đã cho thấy cơ chế của HNVVN, dù muốn dù không, về cơ bản là một cơ chế đóng kín. Cơ chế đó tất cũng sẽ đóng kín với mọi trào lưu tiến bộ trên thế giới, sẽ khiến sự phát triển văn học chật hẹp lại rất nhiều, bất chấp những cái gọi là hoạt động quốc tế ồn ào, hình thức, tốn kém của hội.


Cũng là một cái cớ nữa để mà khó chấp nhận một hội như thế.


Liệu việc từ bỏ HNVVN cũng như  dám đứng ra bày tỏ thái độ yêu nước, kêu gọi chống họa ngoại xâm có làm khó cho ông trong công việc hằng ngày cũng như trong hoạt động sáng tác?


Vừa có vừa không, anh ạ.


Tôi đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, đã bị đài truyền hình Hà Nội đưa hình lên khi nói về “bọn phản động bị các thế lực thù địch ngoài nước xúi giục” rồi. Sau khi lập Ban Vận động Văn đoàn Độc lập thì có chỉ thị cho các báo và các phương tiện truyền thông khác trong nước không được đăng bài vở của tôi, cũng như của tất cả những người tham gia Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, cũng không được nhắc đến tên tuổi chúng tôi nữa. Hội thảo về Nguyễn Đổng Chi vừa rồi cũng bị cấm không được mời tôi, tham luận của tôi gửi đến từ trước bị loại ra khỏi kỷ yếu hội thảo… Về những chuyện này có hai điều cần nói: một số báo vẫn xé rào đăng bài của tôi, đưa tin về tôi. Nghĩa là họ thấy cái chỉ thị kia thật lố bịch. Và theo tôi biết tất cả cấm đoán đó đều chỉ được truyền từ trên xuống bằng miệng, qua điện thoại hay tin nhắn. Một đảng, một nhà nước kỳ lạ. Đánh người toàn bằng đánh trộm, thụi ngầm và phi tang. Nghĩa là người ra lệnh cũng tự biết việc làm của mình ám muội thế nào.


Tuy nhiên tất cả những chuyện đó về cơ bản không gây sứt mẻ gì đối với tôi. Bị quấy nhiễu, tôi đã quen. Còn khi cầm bút, tôi vẫn thanh thản. Sợ nhất là tâm không yên để mà viết, và viết cho hay. Mà cái đó thì là tự trong lòng mình, tự mối liên hệ riêng của bên trong mình với cuộc sống; quấy nhiễu chỉ là ở ngoài, chẳng làm rối được tâm mình.


Là một người có tác phẩm trong chương trình giảng văn, theo ông, vấn đề dạy và học văn hiện tại có phù hợp với nhu cầu cũng như môi trường văn chương đương đại?


Phải nói dạy và học văn trong nhà trường hiện nay đang ở tình trạng tai họa. Nói chi đến chuyện “phù hợp với nhu cầu cũng như môi trường văn chương đương đại”, sẽ là quá sang. Theo tôi, ở môn này hiện nay, người dạy chân chính đang rất gặp khó, người học thì chán ghét. Cũng phải thôi, vì văn – có lẽ cùng với môn sử – là môn bị chính trị hóa nặng nề và thô thiển nhất. Tôi nghĩ không thể nói sự suy thoái của môn văn trong nhà trường không liên quan gì đến sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức xã hội. Nhân đây cũng xin nói một điều: Trong chuyện văn chương, cũng như chuyện dạy và học văn, ở ta vẫn quen coi trọng đúng sai, hơn là hay dở. Trong khi, trong văn chương, “đúng” sẽ chẳng là gì cả, chẳng để làm gì cả, nếu dở. Và văn chương dở thì cực kỳ tai hại. Nó phổ cập, truyền nhiễm cái tầm thường, khiến người ta quen với sự tầm thường, đẩy người ta vào môi trường thường trực của sự tầm thường, cũng như quen ở dơ vậy, lại là cái dơ về tinh thần. Mà tầm thường, dơ bẩn về tinh thần là môi trường của cái xấu, cái ác.


Sự suy thoái của môn văn trong nhà trường hiện nay là đáng báo động, không chỉ về văn học, cho văn học, mà là báo động xã hội.


Cơ chế hoạt động hằng năm của HNVVN dựa vào nguồn kinh phí nào và theo ông cơ chế này có phù hợp với sinh quyển sáng tác, phù hợp với nhu cầu sáng tạo của người nghệ sĩ trong hiện tại?


Dĩ nhiên, kinh phí của nhà nước. Cho nên, tất yếu, “sinh quyển”, như anh gọi, cũng là sinh quyển văn chương nhà nước! Cũng là công bằng thôi: Anh nhận tiền của người ta thì anh phải viết cho người ta chứ, gian lận sao được! Hình như chị Ngô Thị Kim Cúc có nói với anh rồi: ở Ban Vận động Văn đoàn Độc lập chúng tôi đều nghèo, nhưng chúng tôi chắt chiu góp tiền túi với nhau để làm mọi việc, cũng còn ít oi. Ngó  vậy thôi, mà đây cũng là chuyện nhân phẩm và nguyên tắc của người cầm bút.


Ông có dự tính gì mới trong các hoạt động sắp tới của Văn đoàn Độc lập? Tiêu chuẩn để trở thành thành viên Văn đoàn Độc lập?


Hiện nay chúng tôi đang tập trung vào trang Văn Việt. 


Tôi xin tâm sự với anh điều này, khi làm mục “Văn học miền Nam 1954-1975”, đọc lại một phần văn chương miền Nam thời ấy, tôi nhận ra một chỗ khác biệt với văn chương miền Bắc cùng thời: văn chương miền Nam thời ấy có triết học, văn chương miền Bắc thì không. Tất nhiên văn chương không phải là triết học, nhưng một nền văn chương không có triết học thì nguy. Có lẽ một trong những điều chúng tôi sẽ cố gắng sắp tới là giúp nhau đọc nhiều hơn, đông tây kim cổ, nhất là những tìm tòi mới về tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật…, để cho văn chương nghĩ về nhân tình thế thái đỡ cạn cợt, nói về con người và xã hội thấu đáo hơn. Chắc phải bằng nhiều cách, trên trang Văn Việt cũng cần tìm cách đi thêm về hướng này.


Có lần tôi nói với anh Trần Độ về mong muốn đến lúc nào đó trong văn chương ta xuất hiện được một hay vài đỉnh cao mới. Anh ấy bảo: “Mình cũng mong thế, nhưng mình nghĩ trong nghệ thuật muốn có đỉnh cao mới thì phải có trường phái mới…”. Đời sống văn hóa của chúng ta, giáo dục chúng ta, sinh hoạt văn chương của chúng ta không khuyến khích trường phái, nhất là không tạo nền tảng cho những trường phái mới xuất hiện. Có lẽ đã đến lúc nghĩ đến điều này một cách nghiêm túc. Tổ chức của chúng tôi còn nhỏ, nhiều khó khăn, nhưng chúng tôi có tham vọng. Đây cũng là một hướng chúng tôi đang nghĩ tới.


Về cụ thể, chúng tôi cũng đang tính đến một số hình thức hoạt động, như các cuộc thảo luận, đa dạng và cởi mở, một kiểu giải thưởng sao đó… Trong nghệ thuật hình như có hiện tượng: cái hay, và chỉ có cái hay mới gọi được cái hay, cái mới lại kích thích cái mới. Những giải thưởng của Tự lực Văn đoàn ngày trước là vậy, chính qua đó mà văn đoàn này có thể nói đã có công gầy dựng được cả một lớp nhà văn kế tiếp đặc sắc … 


Về thành viên Văn đoàn, chắc chỉ có hai “tiêu chuẩn”: Chúng tôi mong muốn được đón tiếp những cây bút tài năng. Và là người tự nguyện phấn đấu cho tôn chỉ “Vì một nền văn học đích thực, tự do, nhân bản”.


Dự đoán của ông về tương lai văn học trong những thập niên tới?


Tôi không dám làm thầy bói. Chỉ xin nói hai hiện tượng theo tôi là đáng chú ý: 


Tôi thấy đang xuất hiện một lớp người viết trẻ, chưa nhiều nhưng cũng không quá ít, có tài, và đặc biệt rất khác chúng tôi, về cảm nhận thế giới, và cả về tư duy và ngôn ngữ nghệ thuật. Tôi thường nghĩ thế này: Trong đám người chen chúc, hỗn loạn, trùng điệp đến vô diện mạo trên các đường phố Sài Gòn ta có thể thấy bất cứ giờ nào hôm nay, giá như ta có thể tách ra được từng người, có thể lắng nghe được tận sâu kín bên trong của họ, từng người, làm sao trong họ, ít ra ở một số người và từng lúc, lại không có, không nuôi những khát khao và hy vọng về một thế giới tinh khiết, trong trẻo, an lành, thật tốt đẹp… Có thể mong manh lắm, nhưng có… Hình như những người cầm bút trẻ tôi vừa nói trên, đến lượt họ, sẽ nói về cái phần lắng đọng đó, về thế giới mong ước xa xôi đó… Có thể tin.


Cạnh đó, cũng đã thấy một số bạn trẻ rất tài năng, đang đi vào con đường nghiên cứu văn hóa uyên thâm, cập nhật với những vấn đề và suy tưởng mới nhất, và từ đó đang trở lại suy gẫm về văn hóa, văn chương của chúng ta. Có thể chăng họ đang tạo một cái nền cần thiết cho chuyển động văn học mới. Họ làm việc thường lặng lẽ mà ráo riết. Tiếng nói của họ không ồn ào. Chúng tôi đang chăm chú lắng nghe. Và thiết tha chờ đợi.


Xin cám ơn ông, kính chúc ông mạnh khỏe, an lạc!


L. T.


(*) Bản do nhà văn Nguyên Ngọc cung cấp. Đã đăng trên Người Việthttp://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/default.aspx?a=207777&z=1